Saturday, 17 April 2010

1975 - đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh (kỳ 1)

Gần một phần tư thế kỷ trước (*), một đất nước thuộc thế giới thứ ba đã giành thắng lợi trong trận đánh cuối cùng của một cuộc chiến tranh gian khổ kéo dài, nhờ áp dụng một chiến lược tấn công hiện đại, dứt khoát và bất ngờ. Ngày nay, bài học rút ra từ chiến thắng này vẫn thật đáng nhớ, khi chúng ta đang sống trong một thời đại có khuynh hướng cậy vào công nghệ hơn là vào tư duy chiến lược và mặc định rằng các kỹ năng chiến lược của đối phương cũng lạc hậu như nền kinh tế, cấu trúc xã hội và nền tảng công nghệ của họ.

Vào ngày mồng 4 tháng 3 năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam (miền Bắc) tiến hành chiến dịch cuối cùng trong cuộc chiến 30 năm của họ bằng một loạt đợt tấn công vào các vị trí của miền Nam ở đèo Măng Giang, Tây Nguyên. Chiến dịch của họ - kết thúc thắng lợi hoàn toàn không đầy hai tháng sau đó - không giống như bất kỳ trận đánh nào trong lịch sử kéo dài của cuộc chiến tranh.

Khác biệt là ở chỗ, lần đầu tiên, nghệ thuật làm chiến dịch của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) không đặt cơ sở vào ý chí sẵn sàng hy sinh nhiều hơn đối thủ. Ngoài ra, họ cũng chỉ nhắc một cách chiếu lệ tới học thuyết cũ về một cuộc toàn dân nổi dậy. Thay vì tất cả những cái đó, chiến dịch của QĐNDVN dựa vào các kỹ năng đánh lừa, nghi binh (vu hồi), gây bất ngờ, tiếp cận gián tiếp, đánh lần lượt từng cụm căn cứ - nói tóm lại, một chiến dịch rất trí tuệ. QĐNDVN cuối cùng đã vươn tới một chiến dịch xứng tầm với một lực lượng quân đội chuyên nghiệp, hiện đại, thứ mà các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã nỗ lực rất lâu để xây dựng.

Nhiều sử gia vẫn cho rằng trong bối cảnh viện trợ quân sự của Mỹ cho miền Nam giảm toàn diện sau năm 1973, bất kỳ một cuộc tấn công lớn nào của cộng sản cũng sẽ thắng lợi. Tuy vậy, lực lượng đương đầu với QĐNDVN hồi đầu năm 1975 - Quân đội Việt Nam Cộng hòa (QĐVNCH) - không hề là hổ giấy. Khi QĐVNCH gặp phải những vấn đề nghiêm trọng về hậu cần và tinh thần chiến đấu, phần lớn lãnh đạo của họ kém năng lực, thì những người lính trong QĐVNCH, vốn dày dạn trận mạc, lại vẫn duy trì được một lượng đạn dược và trang thiết bị khổng lồ (như đã thể hiện qua số lượng cực lớn các phương tiện chiến tranh mà quân Bắc Việt thu được khi chiến tranh kết thúc). Cứ cho rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam là không thể tránh khỏi, nhưng kết cục có lẽ đã đẫm máu và kéo dài hơn nhiều nếu những người cộng sản chọn một kế hoạch tấn công khác, theo kiểu truyền thống hơn (**). Đòn tiêu diệt mạnh nhất của toàn bộ chiến dịch tổng tiến công thực ra chính là đòn tâm lý choáng váng mà chiến lược tài ba và đầy bất ngờ của họ đã nện vào tổng tư lệnh Việt Nam Cộng hòa.

Bài viết sau đây, chủ yếu rút ra từ các nguồn tài liệu của chính quyền Việt Nam cộng sản, là câu chuyện về sự hình thành và phát triển chiến dịch Tổng Tiến công của QĐNDVN. Thật không may là những người cộng sản Việt Nam chưa mở kho tư liệu về quân sự của họ để cho phép kiểm lại một cách độc lập các ghi chép thời đó về chiến dịch 1975, cũng như chưa cho phép các sử gia Tây phương thực hiện phỏng vấn công khai, thẳng thắn về các bên tham gia trong những sự kiện này – điều cần thiết để có thể viết sử một cách công bằng và thật sự đầy đủ. Do đó, câu chuyện này buộc phải dựa chủ yếu vào lịch sử và ký ức được chính quyền Việt Nam cộng sản ghi nhận (mặc dù một trong những nguồn chính yếu là hồi ký của Trung tướng Trần Văn Trà đã không chỉ bị chính thức phủ nhận mà còn bị tịch thu và cấm ngay sau khi xuất bản, bởi trong hồi ký đó, ông Trà đã phê phán gay gắt các sĩ quan miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là Tổng Tham mưu trưởng QĐND, Tướng Văn Tiến Dũng). Giới nghiên cứu đang cố gắng lọc bỏ những yếu tố tuyên truyền và tự mãn hàm chứa trong câu chuyện của những người cộng sản, cũng như để kiểm lại độ xác thực của những câu chuyện này, đối chiếu với các tài liệu lịch sử thành văn hiện có. Trong khi chờ đợi họ, chúng ta phải thừa nhận rằng một số quan điểm trong tư liệu của miền Bắc Việt Nam cần được tiếp nhận một cách tỉnh táo.

Kế hoạch ban đầu

Những hạt mầm của chiến dịch Tổng Tiến công 1975 của miền Bắc Việt Nam đã được gieo từ hai hội nghị quân sự cấp cao tổ chức tại Hà Nội vào tháng ba và tháng tư năm 1974 để đánh giá tình hình chiến sự. Hai hội nghị này đi đến kết luận rằng QĐNDVN đã giành lại được thế chủ động ở miền Nam, lần đầu tiên kể từ chiến dịch Quảng Trị 1972. Sau Hiệp định ngừng bắn ký tại Paris tháng giêng năm 1973, QĐNDVN đã mở rộng đáng kể tuyến đường huyết mạch chuyên chở hậu cần của họ tới miền Nam - Đường Hồ Chí Minh. Do con đường không còn chịu sự tấn công của không quân Mỹ, miền Bắc Việt Nam nay đã có thể vận chuyển khối lượng khổng lồ trang thiết bị và hàng tiếp tế vào Nam: chỉ riêng trong năm 1973, đã có 80.000 tấn hàng quân sự được cung cấp, trong đó có 27.000 tấn vũ khí, 6.000 tấn chế phẩm xăng dầu, và 40.000 tấn gạo. 100.000 quân nhân mới của QĐNDVN đã hành quân dọc Đường Hồ Chí Minh vào Nam trong suốt năm 1973, và 80.000 người khác lên đường Nam tiến trong nửa đầu năm 1974. Sức mạnh quân đội của QĐNDVN ở chiến trường miền Nam, vốn bị mất đi một phần trong chiến dịch Quảng Trị 1972, giờ đây ở mức hùng hậu nhất trong lịch sử cuộc chiến tranh: 400.000 lính chính quy. QĐNDVN đã có thể thấy ánh sáng cuối đường hầm. Vấn đề họ đang đối diện là làm thế nào để đi tới đoạn cuối đó.

Sau hai hội nghị tháng ba và tháng tư, vào tháng năm, Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội hoàn thành dự thảo, “Đề cương sơ bộ về một kế hoạch giành chiến thắng trong chiến tranh ở miền Nam”. Nghiên cứu này được gửi tới Tổng Tư lệnh của QĐNDVN, đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp, để ông duyệt. Ngày 18-1-1974, sau khi đánh giá cẩn thận đề cương này, Tướng Giáp gọi người phó của ông, Tướng Hoàng Văn Thái, và ra lệnh chuẩn bị cho một kế hoạch chiến dịch chính thức nhằm vào việc giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam muộn nhất trong năm 1976. Quan điểm chung của ông Giáp là một cuộc tấn công hai giai đoạn, bao gồm một đợt công kích lớn của quân chủ lực vào Tây Nguyên, sau đó là một cuộc tấn công dốc toàn lực nhằm vào lực lượng bảo vệ Sài Gòn. (Nhiều sử gia – những người khẳng định Tướng Giáp ít hoặc không đóng vai trò nào trong Tổng Tiến công 1975 - cho rằng tới lúc đó ông đã bị hạn chế đến mức chỉ còn vị thế bung xung, do sức khỏe kém và do thất bại của ông trong hai chiến dịch 1968 và 1972. Tuy nhiên, những tư liệu của chính quyền cộng sản lại mô tả Giáp với tư cách một người tham gia rất nhiều vào việc lập kế hoạch và chỉ huy tổng thể chiến dịch từ lúc hình thành ý tưởng cho tới thắng lợi cuối cùng). Ngày 26-8-1974, sau khi xem lại một số bản dự thảo trước đó, Bộ Tổng Tham mưu hoàn tất “Kế hoạch chiến lược 1975-76" và ban hành trong ban lãnh đạo cấp cao của Đảng cũng như chuyển cho các chỉ huy quân sự cấp cao để xin ý kiến. Kế hoạch hoàn chỉnh cuối cùng được trình các lãnh đạo Đảng duyệt tại một phiên họp kéo dài của Bộ Chính trị vào tháng 10 năm 1974.

Mặc dù QĐNDVN biết họ đã giành được thế chủ động chiến lược ở miền Nam Việt Nam, kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu vẫn khá thận trọng, bởi họ vẫn đang phải đương đầu với một số vấn đề nghiêm trọng. Các nỗ lực của cộng sản nhằm xây dựng lại căn cứ du kích ở vùng nông thôn Việt Nam đã thất bại trên diện rộng, chỉ đạt 30% trong tổng số mục tiêu sức mạnh quân sự trong kế hoạch 1973-74 của các lực lượng vũ trang địa phương ở miền Nam. Thêm vào đó, cơ sở chính trị ở nội đô cũng rất yếu, và quan trọng nhất là, các lực lượng chính quy của QĐNDVN đối diện với tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng về vũ khí hạng nặng và đạn dược. Thêm nữa, mặc dù giới lãnh đạo của Bắc Việt tin rằng họ có một cửa cơ hội vài năm có một để giành chiến thắng trước khi Mỹ phục hồi trở lại sau những bê bối chính trị trong nước, QĐNDVN tin rằng họ vẫn phải cảnh giác với sự can thiệp có thể có từ nước ngoài. Trong các chỉ thị ban đầu của Tướng Giáp, có yêu cầu các lực lượng quân đội của miền Bắc phải chuẩn bị cho khả năng cuộc tổng tiến công có thể khiêu khích Mỹ ném bom trở lại vào miền Bắc hoặc thậm chí đổ bộ vào vịnh Bắc Bộ. Bộ Tổng Tham mưu quyết định rằng, xét các vấn đề này, QĐNDVN không thể đi tới một chiến dịch “tổng tấn công và nổi dậy toàn quốc” kiểu Tết Mậu Thân 1968, huy động lượng lớn du kích ở nông thôn và thành thị (mà họ không hề có), cũng như không có các nguồn lực để tiến hành một cuộc tấn công ồ ạt, trên toàn tuyến, theo kiểu truyền thống như chiến dịch Quảng Trị 1972.

Sự thiếu hụt về tăng thiết giáp và trọng pháo - điều kiện cần để tấn công vào các căn cứ ở cấp sư đoàn và trung đoàn vốn được trang bị rất đầy đủ của VNCH - đè nặng lên tâm trí những nhà hoạch định chiến lược của Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN, những người đã lập nên bản kế hoạch để trình Bộ Chính trị vào tháng 10 năm 1974. Sau này, người ta chủ yếu tìm hiểu xem tình trạng thiếu đạn trong quân đội VNCH tác động như thế nào đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam, mà không biết rằng chính QĐNDVN mới chịu thiếu hụt nghiêm trọng. Viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt ở danh mục “vũ khí tấn công” (xe tăng và pháo), đã giảm đáng kể từ sau Hiệp định Paris 1973. Những thiệt hại lớn của QĐNDVN trong chiến dịch Quảng Trị 1972 càng làm trầm trọng thêm vấn nạn thiếu hụt do sự suy giảm viện trợ này gây ra. Ngoài ra, phần lớn xe tăng và pháo của QĐNDVN ở trong tình trạng rất tồi tệ, phụ tùng thì thiếu. Nhiều đơn vị pháo binh của QĐNDVN, nhất là ở miền Nam, vẫn chỉ được trang bị súng cối hạng nhẹ, súng trường không giật (DKZ), hoặc ống phóng hỏa tiễn vác vai (B40).

Ở địa bàn hoạt động của Văn phòng Trung ương cục Miền Nam, tức là nửa phía nam của đất nước, bảy sư đoàn bộ binh (số 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9) và khung quân đoàn 4 chỉ được yểm trợ bởi năm tiểu đoàn pháo (hai trong số đó có trang bị pháo lấy được của Mỹ nhưng còn rất ít đạn) và ba tiểu đoàn tăng thiết giáp thiếu bộ đội. Khi Quân đoàn 2 của QĐNDVN chiếm Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975, họ cũng chỉ có tổng cộng 89 xe tăng và thiết giáp chở quân, 87 cỗ pháo.

Tuy nhiên, vấn đề gay go nhất là nạn thiếu nghiêm trọng đạn cho xe tăng và trọng pháo (tức là pháo dã chiến và cối 85mm trở lên). Hồi chiến dịch Quảng Trị 1972, quân đội miền Bắc đã bắn hơn 220.000 viên đạn xe tăng và trọng pháo, trong đó 150.000 viên đã được sử dụng chỉ riêng tại mặt trận Quảng Trị. Cho đến năm 1974, toàn bộ kho đạn pháo và đạn tăng của QĐNDVN, bao gồm tất cả đạn dược của cả các đơn vị chiến đấu ở chiến trường lẫn của các kho dự trữ chiến lược, tổng cộng chỉ được 100.000 viên. Tình hình đạn dược nghiêm trọng tới mức các chỉ huy pháo binh phải thay pháo lớn ở một số đơn vị bằng các khẩu pháo đã lỗi thời 76,2mm và 57mm, lấy từ kho ra.

Vì những vấn đề này, Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN ban hành sắc lệnh rằng tất cả các vũ khí hạng nặng và đạn dược còn lại phải được sử dụng thật tiết kiệm, để dành cho một đòn quyết định, chỉ tiến hành khi trận cuối cùng diễn ra. Kế hoạch 1975-76 chỉ cho phép dùng hơn 10% kho đạn tăng-pháo còn lại của QĐNDVN trong cả chiến dịch 1975. 45% được phân phối cho chiến dịch 1976, phần còn lại để dự trữ.

CÒN NỮA

Đoan Trang dịch từ nguyên tác North Vietnam's Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil - “Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Tác giả Merle L. Pribbenow tốt nghiệp Đại học Washington năm 1968, chuyên ngành khoa học chính trị. Ông là nhân viên Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Đông Dương, có 27 năm kinh nghiệm nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có 5 năm làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tính đến ngày 29/4/1975. Kể từ khi về hưu (năm 1995), ông đã viết ba bài nghiên cứu lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và dịch một cuốn sách của Bộ Quốc phòng Việt Nam sang tiếng Anh, xuất bản tháng 5/2002 tại Mỹ.


(*) Bài viết này được thực hiện vào năm 1999.

(**) Nguyên văn: conventional attack, nghĩa là một cuộc tấn công mang tính chất của chiến tranh quy ước. Chiến tranh quy ước là chiến tranh giữa các binh đoàn chủ lực, hay tác chiến binh chủng hợp thành.