Trong toàn bộ cuộc trò chuyện, khoảnh khắc tôi rất nhớ là khi tôi hỏi về những hoạt động đang được tiến hành để kỷ niệm ngày 30/4, và ông im lặng chừng một giây, rồi trả lời: "30-4, đừng làm người ta đau thêm nữa. Người chiến thắng dẫu sung sướng, nhưng cũng phải nhìn thấy nỗi đau của những bà mẹ mất con". Đó là ông Nguyễn Dy Niên, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam (từ năm 2000 đến năm 2006).
++++++++++
- Trong lĩnh vực ngoại giao, muốn xây dựng vị thế trên trường quốc tế thì phải làm thế nào, thưa ông?
- Quan trọng nhất là phải xây dựng thực lực kinh tế. Nếu không thì không làm được gì cả. Tôi đã từng tham gia hội nghị đàm phán về việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Phải nói rằng để Mỹ ký hiệp định đình chiến năm 1973 như vậy thì trên chiến trường mình phải mạnh. Chúng tôi nói với nhau là, có thắng ở chiến trường mới thắng ở bàn hội nghị được, chứ trên bàn hội nghị mình không thể đi xa hơn thắng lợi trên chiến trường.
Bây giờ cũng vậy thôi. Đến thời kỳ hòa bình thì thực lực kinh tế của mình phải mạnh, vị thế quốc tế của mình mới cao được. Không xây dựng được thực lực thì khó lắm. Hãy nhìn vào Nhật Bản. Khác với chúng ta là nước chiến thắng, Nhật Bản sau Thế chiến II là một quốc gia bại trận. Thế nhưng người Nhật đã cắn răng chịu khổ, thậm chí có thể nói thẳng ra là chịu nhục, để vươn lên, xây dựng đất nước. Chúng ta là kẻ chiến thắng, thuận lợi hơn họ rất nhiều, phải học tinh thần nhẫn nại kiên trì của họ để xây dựng cho nước ta mạnh lên. Có mạnh lên thì mới có vị thế cao ở khu vực và quốc tế được. Bác Hồ đã nói: “Thực lực như cái chuông, ngoại giao như tiếng chuông. Chuông có to, tiếng mới lớn”.
- Theo ông, trong hoạt động ngoại giao của Việt Nam hiện nay, còn những vấn đề gì cần vượt qua và bằng cách nào?
- Hoạt động ngoại giao của chúng ta có thể đi xa hơn nữa, nhưng cũng phải thấy ngoại giao chỉ là cánh tay nối dài của đối nội, của tình hình trong nước, chứ không thể nào vượt quá được. Cho nên muốn phát huy ngoại giao thì có những cái vướng phải vượt qua, như vấn đề dân chủ, nhân quyền, là áp lực mà Mỹ và các nước EU vẫn đặt ra cho chúng ta. Tôi vẫn nhớ một lần sang Singapore, ông Lý Quang Diệu bảo: “Singapore là nước một đảng, độc quyền nhiều thứ, nhưng sở dĩ họ không chống đối chúng tôi quyết liệt như với các ông, thì thứ nhất là do khác biệt về ý thức hệ. Nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ thì vấn đề ý thức hệ không còn là cái lớn như trước. Cái thứ hai là vấn đề công khai”. Tôi lấy ví dụ, bắt người này, người kia, là việc phải công khai, có sự thuyết phục chứ không chỉ nói một vài câu chung chung. Người ta vi phạm luật pháp thế nào, vi phạm điều luật nào, thì phải làm sáng tỏ ra chứ, phải nói rõ, nói kỹ, và phải làm ngay, đừng để người ta lên tiếng phản ứng mới đáp lại. Tôi nghĩ, quốc gia nào cũng vậy, không ai có thể khẳng định mình là một xã hội đầy đủ, hoàn thiện. Như ở Mỹ, sau vụ khủng bố 11 tháng 9, cảnh sát ra đường có thể bắt và khám xét bất cứ người nào mà họ tình nghi là khủng bố. Đó, đấy là mới bị động đến một tí, chứ như Việt Nam trải qua cả một cuộc chiến tranh, bạo loạn… làm sao mà mình buông lỏng được.
Cho nên phải dân chủ hơn nữa. Vì không có dân chủ thì không thể có trí tuệ. Phải cho người ta nói, nói hết, nhất là tầng lớp trí thức. Để cho trí thức có thể phản biện. Lắng nghe họ, và sau đó có sự điều chỉnh, chứ cứ ào ào nghe xong rồi lại thống nhất như nghị quyết thì thôi, đưa ra làm gì. Người ta cần có niềm tin và cảm thấy rằng họ có quyền đóng góp, dự phần vào các quyết định quan trọng của đất nước. Mình thực hiện tốt vấn đề dân chủ, nhân quyền thì hình ảnh Việt Nam sẽ khác nhiều lắm, và các nước sẽ nể vì, tôn trọng mình.
Cái thứ hai là phải xây dựng thực lực kinh tế, chống tham nhũng. Tham nhũng ở Việt Nam là cái nhũng nhiễu, tham nhũng vặt, gây khó chịu. Nhưng nó chứng tỏ một thực tế là đồng lương của chúng ta không đủ sống. Người ta có mức lương hơn 10 triệu thì họ đã không làm chuyện vặt, họ có lòng tự trọng chứ. Mới đây, tôi xem bộ phim “Những thiên thần áo trắng”. Phim kể chuyện, thầy giáo dạy thêm, trò nào học thêm thì thầy cho điểm cao, làm cả lớp chống đối. Nhưng đến khi các em đến nhà thầy mới biết thầy phải đi tráng bánh cùng vợ để kiếm sống, thầy cơ cực quá, khổ quá. Thế là sự chống đối dịu đi, học sinh thương thầy, ôm thầy khóc. Cho nên tôi nghĩ tham nhũng sẽ giảm nếu ta nhìn vào gốc rễ vấn đề là mức lương không đủ sống… Nhưng cái này nói thì dễ, làm thì khó (cười). Quản lý xã hội là bài toán rất khó.
Cái thứ ba tôi nghĩ là hòa hợp dân tộc. Người Việt chúng ta có mặt ở khắp năm châu. Hòa hợp, đoàn kết sẽ mang lại sức mạnh vô cùng lớn. Bác Hồ đã dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Phải nói đó là câu nói bất hủ, tuyệt vời.
30-4 là một khúc khải hoàn vĩ đại của dân tộc, nhưng 35 năm đã trôi qua rồi. Tôi nghĩ giờ đây chúng ta cần một khúc khải hoàn mà mọi người dân Việt Nam, dù ở bất kỳ nơi đâu, cũng đều có thể hát được. Đó chính là hòa bình, độc lập và hòa hợp dân tộc để cùng xây dựng đất nước. Sau 35 năm, tình hình đã khác rồi. Nếu chúng ta làm được điều này thì vị thế của Việt Nam, những con mắt nhìn vào Việt Nam, sẽ thay đổi.
Những dịp 30-4 như thế này là dịp để làm gia tăng tinh thần đại đoàn kết. Phải làm sao để huy động tất cả các lực lượng, cho dù còn ý nọ ý kia. 30-4, đừng làm người ta đau thêm nữa. Người chiến thắng dẫu sung sướng, nhưng cũng phải nhìn thấy nỗi đau của những bà mẹ mất con. Cho nên, mình phải thấy phía bên kia nhiều đau đớn lắm. Phải làm sao để thế hệ trẻ bên kia hướng về đất nước mà bảo rằng đây là Tổ quốc CHUNG của những người Việt Nam, bất luận ở đâu (ông Nguyễn Dy Niên nhấn mạnh). Tổ quốc không của riêng ai. Lúc này là lúc phải đoàn kết lại tất cả để cùng nhau hát lên lời ca Vua Hùng dựng nước, chúng ta cùng xây dựng để đất nước phát triển. Không mộng tưởng trở thành cường quốc gì cả, nhưng chúng ta phải thể hiện ý chí của một dân tộc: vươn lên. Tôi nghĩ lúc này là lúc phải làm, đừng nói một chiều nữa. Tất nhiên phải trân trọng những người đã hy sinh, đã đổ xương máu, nhưng 35 năm qua rồi, phải nghĩ xa hơn, nghĩ tới tương lai. Hòa hợp là lúc này đây, bây giờ là lúc cần hòa hợp. Mình phải nghĩ tới tương lai dân tộc. Đừng để chia rẽ nữa, chia rẽ đã gây bao đau thương cho dân tộc rồi. Người chiến thắng phải bao dung, độ lượng, kéo tất cả mọi người lại.
- Trong đường lối ngoại giao của Nhà nước ta bây giờ, có điều gì cần phải lưu ý, thưa ông?
- Cái lưu ý lớn nhất là độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mà chúng ta phải luôn luôn bảo vệ cho được. Thứ hai là luôn phải nghĩ đến lợi ích của dân tộc mình. Phải nghĩ đến dân tộc mình trước tiên, dù là lợi ích kinh tế, văn hóa, hay bất kỳ lĩnh vực nào.
Thứ ba là phải luôn duy trì bản sắc của mình, tuy nhiên về điểm này, theo tôi, xã hội có phát triển đến thế nào, thì bản sắc dân tộc cũng không thể mất được. Người già thì hay lo tụi trẻ lớn lên lại đánh mất hết, nhưng tôi nghĩ không đến nỗi thế. Hồi xưa đánh Pháp, các cụ già cũng hay bảo thế hệ tôi là “chúng mày rồi cũng lai căng hết thôi”, nhưng đâu có thế đâu (cười). Người Việt Nam mình tinh thần dân tộc cao lắm.
I dare not describe myself as a patriot. I just believe I am psychologically attached to my country.
Friday, 30 April 2010
Thursday, 29 April 2010
Ông Nguyễn Dy Niên: "Giá mà chúng ta khôn khéo hơn..."
Lần đầu tiên, tôi được nghe một nhà ngoại giao, chính trị gia Việt Nam nói những điều này: “Ngày ấy (năm 1975) chúng ta đã thực hiện những chính sách mà… đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, được một phần của Đổi Mới sau này thôi, thì Việt Nam bây giờ đã mạnh lắm, cường thịnh lắm... Nhưng thay vì khoan dung và khéo léo trong đối nội, chúng ta lại có những chính sách như cải tạo công thương nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp dụng ở miền Bắc đã thấy trục trặc rồi, vậy mà ta lại tiếp tục áp dụng ở miền Nam. Hậu quả là làm nền sản xuất không thể nào đứng vững được, người dân thì hoang mang”.
Người nói câu ấy là ông Nguyễn Dy Niên, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam.
+++++++
- Phóng viên: Đã công tác suốt hơn 50 năm trong ngành ngoại giao (từ năm 1954 khi mới 19 tuổi), chứng kiến nhiều thăng trầm của đất nước và tham gia nhiều cuộc đàm phán quốc tế, ông đánh giá sao về tình hình Việt Nam và bối cảnh quốc tế sau ngày thống nhất đất nước, 30-4-1975?
- Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên: Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta bước vào một thời kỳ hòa bình và xây dựng. Nhưng phải nói rằng khúc khải hoàn ngắn quá, bởi ngay sau đó, chúng ta lại vướng vào chiến tranh ở biên giới Tây Nam, Pol Pot bắt đầu quấy phá, rồi chiến tranh Campuchia. Đó là thời kỳ cực kỳ khó khăn, miền Bắc kiệt quệ, xơ xác sau những năm tháng dốc toàn lực cho chiến trường, miền Nam đổ vỡ vì chiến tranh, các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra rất lớn, công việc thì bề bộn. Đất nước hồi đó khó khăn lắm.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, thời gian sau ngày 30-4-1975 là một cơ hội cực kỳ tốt mà chúng ta chậm khai thác. Hầu như tất cả các nước phương Tây khi ấy đều muốn thiết lập quan hệ với Việt Nam. Mỹ cũng muốn bình thường hóa quan hệ với ta. Bởi vì vị thế của Việt Nam lúc đó là vị thế của người chiến thắng, ngời ngời vinh quang, các nước rất nể trọng, quý mến. Nhưng rất tiếc là chúng ta còn dè dặt – cũng một phần do những ràng buộc của lý luận - nên đã bỏ lỡ, không tận dụng được cơ hội ấy.
Đến lúc ta vướng vào vấn đề Campuchia thì tất cả những thuận lợi đó đều mất đi: Trước hết là những người ủng hộ ta bắt đầu hoang mang, không hiểu tại sao một dân tộc đã tự giải phóng mình nay lại đưa quân sang nước khác. Rồi tới những người trước đây đã lưỡng lự, chưa hoàn toàn ủng hộ Việt Nam, thì đến lúc này họ quay hẳn sang chống lại chúng ta. Họ đâu biết rằng Việt Nam đang làm một nghĩa vụ quốc tế cực kỳ quan trọng mà không dân tộc nào lúc đó làm được, đâu biết rằng vào Campuchia là Việt Nam phải hy sinh ghê gớm lắm, mất đi sự ủng hộ của thế giới, mất bao xương máu, mất cả nguồn lực kinh tế dồn vào để bảo vệ, giúp đỡ Campuchia. Đến bây giờ, khi đã hiểu ra tình hình rồi, người ta mới cảm ơn Việt Nam. Chúng ta luôn mong muốn hòa bình, nhưng vào giai đoạn ấy, chúng ta bắt buộc phải làm những việc khiến vị thế quốc tế của mình gặp khó khăn.
- Như vậy, có phải những khó khăn mà Việt Nam gặp phải vào những năm sau chiến tranh là bất khả kháng?
- Không hẳn như thế, còn do phần nguyên nhân chủ quan nữa. Lúc ấy, giá chúng ta khôn khéo hơn trong chính sách đối nội, thì đã trấn an được lòng người. Tôi muốn nói rằng, nếu ngày ấy chúng ta đẩy mạnh hòa hợp dân tộc, chúng ta có cái khoan dung của người chiến thắng, thì sẽ làm yên lòng người dân, nói chính xác là sẽ làm một bộ phận không nhỏ người dân miền Nam yên lòng với chế độ mới. Nhưng thay vì khoan dung và khéo léo trong đối nội, chúng ta lại có những chính sách như cải tạo công thương nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp dụng ở miền Bắc đã thấy trục trặc rồi, vậy mà ta lại tiếp tục áp dụng ở miền Nam. Hậu quả là làm nền sản xuất không thể nào đứng vững được, người dân thì hoang mang.
Tôi nhớ năm 2008, tôi sang Ý, gặp một bạn Việt Nam khoảng 40 tuổi, thuộc diện di tản. Cậu ấy kể lại, hồi 1975, nhà cậu ấy chỉ sản xuất bút viết thôi nhưng cũng bị cho là bóc lột (vì có thuê người làm công), thế là bị “đánh”. Đánh lần thứ nhất thì gia đình còn cố gắng chịu được, nhưng đến lần thứ hai, bị tịch thu hết cả phương tiện sản xuất, thì không sống nổi nữa và buộc phải ra đi. Cậu ấy kể lại thảm cảnh của người vượt biên, nghe xót xa lắm. Gia đình dồn hết cả tiền bạc, mang theo đứa em mới có ba tuổi. Ra ngoài khơi thì thuyền thủng đáy, phải chuyển sang thuyền khác, chẳng may trong lúc lúng túng, đứa bé rơi xuống biển. Bà mẹ đã định nhảy theo xuống biển tự tử, may mà người ta giữ lại được. Cậu ấy kể: “Bố mẹ cháu hận lắm, nhưng dần dần thì cũng nguôi đi”. Tôi hỏi: “Thế bây giờ cháu có hận không?”. “Không, cháu không thù hận nữa. Cháu về nước nhiều lần rồi, lấy vợ Việt Nam rồi” – cậu ấy nói thế.
Đó, phải nói là ngày ấy mình đã thực hiện những chính sách mà đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, được một phần của Đổi Mới sau này thôi, thì Việt Nam đã mạnh lắm, cường thịnh lắm.
Dẫu sao, mọi chuyện đã thành lịch sử. Một con người còn khó mà hoàn hảo, huống gì là cả một cuộc cách mạng. Nhưng điều hay là sau này chúng ta biết sửa sai, đổi mới. Không thể tránh khỏi những sơ sảy và có cái giá phải trả, do những sai lầm chủ quan của mình và cả nguyên nhân khách quan thêm vào. Nhưng điều quan trọng trong bất kỳ thời nào là phải rút ra bài học để không bao giờ lặp lại những sai lầm ấy nữa, để mình đi lên.
- Từ năm 1975 đến nay, có những sự kiện nào là mốc nổi bật, có ý nghĩa nhất trong hoạt động ngoại giao của Việt Nam, thưa ông?
- Sự kiện chính trị lớn nhất là Đại hội VI của Đảng đề ra Đổi Mới. Không có Đổi Mới thì đúng là không biết Việt Nam sẽ đi về đâu, thậm chí có tồn tại như ngày nay được không. Tôi nghĩ đó là cái mốc lớn nhất, căn bản nhất. Về đối ngoại thì sự kiện quan trọng sau năm 1975 là tìm được giải pháp cho vấn đề Campuchia, rút quân khỏi Campuchia. Tiếp theo là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ.
Mấy mốc ấy rất quan trọng. Bạn phải biết là con đường đi đến Đổi Mới cũng gặp nhiều cái vướng lắm chứ không phải dễ dàng thênh thang đâu. Cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là người rất nhạy cảm với cái mới, ông muốn vươn lên, muốn đi rất nhanh, và trong nội bộ ban lãnh đạo cũng có nhiều người ủng hộ ông lắm, ấy vậy mà chưa được, cũng phải đến lúc có sự đồng thuận trong toàn Đảng mà nhất là trong Bộ Chính trị thì mới đổi mới được. Đổi Mới là cái mốc lớn nhất, căn bản nhất, đánh dấu việc chúng ta đã biết rút ra bài học và tìm đường đi. Còn bình thường hóa cũng không hề dễ dàng. Phải đi từng bước thật vững, thật cân bằng, cho phù hợp với tình hình trong nước, tình hình khu vực và thế giới. Những bước đi đó đều là các vấn đề phải tính toán rất kỹ.
- Nói riêng về quá trình đàm phán với Mỹ, chúng ta đã trải qua những khó khăn thế nào, thưa ông?
- Từ năm 1976 ta bắt đầu đàm phán với Mỹ. Nhưng lúc ấy mình đưa ra, như trong nghề ngoại giao chúng tôi hay nói, đưa ra cả một “cục xương” mà họ không nuốt nổi (cười), đó là bồi thường chiến tranh. Chủ trương của chúng ta ngày ấy là dứt khoát đòi bồi thường. Trưởng đoàn Phan Hiền lên đường đàm phán, lãnh đạo căn dặn đại ý “hai triệu sinh mạng đã mất trong chiến tranh, anh nhớ lấy điều đó”. Với chủ trương ấy, trong tình hình ấy, người đàm phán không thể làm khác được, thế là chúng ta bỏ mất cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ, trong khi vào thời điểm đó, mình là người ra điều kiện để bình thường hóa. Sau này, tới những năm 90 thì Mỹ lại là bên ra điều kiện. Ta bỏ lỡ mất 20 năm. Nhưng nói vậy thôi, cũng phải hiểu rằng lúc đó, chúng ta chưa chuẩn bị được đâu. Miền Nam vừa giải phóng mà lại có một Đại sứ quán Mỹ mới ở TP.HCM… thì cũng khó chứ…
CÒN NỮA
Người nói câu ấy là ông Nguyễn Dy Niên, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam.
+++++++
- Phóng viên: Đã công tác suốt hơn 50 năm trong ngành ngoại giao (từ năm 1954 khi mới 19 tuổi), chứng kiến nhiều thăng trầm của đất nước và tham gia nhiều cuộc đàm phán quốc tế, ông đánh giá sao về tình hình Việt Nam và bối cảnh quốc tế sau ngày thống nhất đất nước, 30-4-1975?
- Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên: Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta bước vào một thời kỳ hòa bình và xây dựng. Nhưng phải nói rằng khúc khải hoàn ngắn quá, bởi ngay sau đó, chúng ta lại vướng vào chiến tranh ở biên giới Tây Nam, Pol Pot bắt đầu quấy phá, rồi chiến tranh Campuchia. Đó là thời kỳ cực kỳ khó khăn, miền Bắc kiệt quệ, xơ xác sau những năm tháng dốc toàn lực cho chiến trường, miền Nam đổ vỡ vì chiến tranh, các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra rất lớn, công việc thì bề bộn. Đất nước hồi đó khó khăn lắm.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, thời gian sau ngày 30-4-1975 là một cơ hội cực kỳ tốt mà chúng ta chậm khai thác. Hầu như tất cả các nước phương Tây khi ấy đều muốn thiết lập quan hệ với Việt Nam. Mỹ cũng muốn bình thường hóa quan hệ với ta. Bởi vì vị thế của Việt Nam lúc đó là vị thế của người chiến thắng, ngời ngời vinh quang, các nước rất nể trọng, quý mến. Nhưng rất tiếc là chúng ta còn dè dặt – cũng một phần do những ràng buộc của lý luận - nên đã bỏ lỡ, không tận dụng được cơ hội ấy.
Đến lúc ta vướng vào vấn đề Campuchia thì tất cả những thuận lợi đó đều mất đi: Trước hết là những người ủng hộ ta bắt đầu hoang mang, không hiểu tại sao một dân tộc đã tự giải phóng mình nay lại đưa quân sang nước khác. Rồi tới những người trước đây đã lưỡng lự, chưa hoàn toàn ủng hộ Việt Nam, thì đến lúc này họ quay hẳn sang chống lại chúng ta. Họ đâu biết rằng Việt Nam đang làm một nghĩa vụ quốc tế cực kỳ quan trọng mà không dân tộc nào lúc đó làm được, đâu biết rằng vào Campuchia là Việt Nam phải hy sinh ghê gớm lắm, mất đi sự ủng hộ của thế giới, mất bao xương máu, mất cả nguồn lực kinh tế dồn vào để bảo vệ, giúp đỡ Campuchia. Đến bây giờ, khi đã hiểu ra tình hình rồi, người ta mới cảm ơn Việt Nam. Chúng ta luôn mong muốn hòa bình, nhưng vào giai đoạn ấy, chúng ta bắt buộc phải làm những việc khiến vị thế quốc tế của mình gặp khó khăn.
- Như vậy, có phải những khó khăn mà Việt Nam gặp phải vào những năm sau chiến tranh là bất khả kháng?
- Không hẳn như thế, còn do phần nguyên nhân chủ quan nữa. Lúc ấy, giá chúng ta khôn khéo hơn trong chính sách đối nội, thì đã trấn an được lòng người. Tôi muốn nói rằng, nếu ngày ấy chúng ta đẩy mạnh hòa hợp dân tộc, chúng ta có cái khoan dung của người chiến thắng, thì sẽ làm yên lòng người dân, nói chính xác là sẽ làm một bộ phận không nhỏ người dân miền Nam yên lòng với chế độ mới. Nhưng thay vì khoan dung và khéo léo trong đối nội, chúng ta lại có những chính sách như cải tạo công thương nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp dụng ở miền Bắc đã thấy trục trặc rồi, vậy mà ta lại tiếp tục áp dụng ở miền Nam. Hậu quả là làm nền sản xuất không thể nào đứng vững được, người dân thì hoang mang.
Tôi nhớ năm 2008, tôi sang Ý, gặp một bạn Việt Nam khoảng 40 tuổi, thuộc diện di tản. Cậu ấy kể lại, hồi 1975, nhà cậu ấy chỉ sản xuất bút viết thôi nhưng cũng bị cho là bóc lột (vì có thuê người làm công), thế là bị “đánh”. Đánh lần thứ nhất thì gia đình còn cố gắng chịu được, nhưng đến lần thứ hai, bị tịch thu hết cả phương tiện sản xuất, thì không sống nổi nữa và buộc phải ra đi. Cậu ấy kể lại thảm cảnh của người vượt biên, nghe xót xa lắm. Gia đình dồn hết cả tiền bạc, mang theo đứa em mới có ba tuổi. Ra ngoài khơi thì thuyền thủng đáy, phải chuyển sang thuyền khác, chẳng may trong lúc lúng túng, đứa bé rơi xuống biển. Bà mẹ đã định nhảy theo xuống biển tự tử, may mà người ta giữ lại được. Cậu ấy kể: “Bố mẹ cháu hận lắm, nhưng dần dần thì cũng nguôi đi”. Tôi hỏi: “Thế bây giờ cháu có hận không?”. “Không, cháu không thù hận nữa. Cháu về nước nhiều lần rồi, lấy vợ Việt Nam rồi” – cậu ấy nói thế.
Đó, phải nói là ngày ấy mình đã thực hiện những chính sách mà đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, được một phần của Đổi Mới sau này thôi, thì Việt Nam đã mạnh lắm, cường thịnh lắm.
Dẫu sao, mọi chuyện đã thành lịch sử. Một con người còn khó mà hoàn hảo, huống gì là cả một cuộc cách mạng. Nhưng điều hay là sau này chúng ta biết sửa sai, đổi mới. Không thể tránh khỏi những sơ sảy và có cái giá phải trả, do những sai lầm chủ quan của mình và cả nguyên nhân khách quan thêm vào. Nhưng điều quan trọng trong bất kỳ thời nào là phải rút ra bài học để không bao giờ lặp lại những sai lầm ấy nữa, để mình đi lên.
- Từ năm 1975 đến nay, có những sự kiện nào là mốc nổi bật, có ý nghĩa nhất trong hoạt động ngoại giao của Việt Nam, thưa ông?
- Sự kiện chính trị lớn nhất là Đại hội VI của Đảng đề ra Đổi Mới. Không có Đổi Mới thì đúng là không biết Việt Nam sẽ đi về đâu, thậm chí có tồn tại như ngày nay được không. Tôi nghĩ đó là cái mốc lớn nhất, căn bản nhất. Về đối ngoại thì sự kiện quan trọng sau năm 1975 là tìm được giải pháp cho vấn đề Campuchia, rút quân khỏi Campuchia. Tiếp theo là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ.
Mấy mốc ấy rất quan trọng. Bạn phải biết là con đường đi đến Đổi Mới cũng gặp nhiều cái vướng lắm chứ không phải dễ dàng thênh thang đâu. Cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là người rất nhạy cảm với cái mới, ông muốn vươn lên, muốn đi rất nhanh, và trong nội bộ ban lãnh đạo cũng có nhiều người ủng hộ ông lắm, ấy vậy mà chưa được, cũng phải đến lúc có sự đồng thuận trong toàn Đảng mà nhất là trong Bộ Chính trị thì mới đổi mới được. Đổi Mới là cái mốc lớn nhất, căn bản nhất, đánh dấu việc chúng ta đã biết rút ra bài học và tìm đường đi. Còn bình thường hóa cũng không hề dễ dàng. Phải đi từng bước thật vững, thật cân bằng, cho phù hợp với tình hình trong nước, tình hình khu vực và thế giới. Những bước đi đó đều là các vấn đề phải tính toán rất kỹ.
- Nói riêng về quá trình đàm phán với Mỹ, chúng ta đã trải qua những khó khăn thế nào, thưa ông?
- Từ năm 1976 ta bắt đầu đàm phán với Mỹ. Nhưng lúc ấy mình đưa ra, như trong nghề ngoại giao chúng tôi hay nói, đưa ra cả một “cục xương” mà họ không nuốt nổi (cười), đó là bồi thường chiến tranh. Chủ trương của chúng ta ngày ấy là dứt khoát đòi bồi thường. Trưởng đoàn Phan Hiền lên đường đàm phán, lãnh đạo căn dặn đại ý “hai triệu sinh mạng đã mất trong chiến tranh, anh nhớ lấy điều đó”. Với chủ trương ấy, trong tình hình ấy, người đàm phán không thể làm khác được, thế là chúng ta bỏ mất cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ, trong khi vào thời điểm đó, mình là người ra điều kiện để bình thường hóa. Sau này, tới những năm 90 thì Mỹ lại là bên ra điều kiện. Ta bỏ lỡ mất 20 năm. Nhưng nói vậy thôi, cũng phải hiểu rằng lúc đó, chúng ta chưa chuẩn bị được đâu. Miền Nam vừa giải phóng mà lại có một Đại sứ quán Mỹ mới ở TP.HCM… thì cũng khó chứ…
CÒN NỮA
Wednesday, 28 April 2010
1975 - đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh (tiếp theo và hết)
Vào ngày 7-1-1975, theo nghị quyết của phiên họp Bộ Chính trị phê duyệt kế hoạch mới, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đặt ra các mục tiêu của cuộc tấn công: Ở Quân khu 5 và Tây Nguyên, sử dụng ba sư đoàn chủ lực tấn công Tây Nguyên, mở ra một hành lang nối kết phần phía nam của Tây Nguyên với phía đông của Nam Bộ, và tạo điều kiện cho quân chủ lực di chuyển nhanh vào đông Nam Bộ, hợp tác với quân chủ lực của Trung ương Cục Miền Nam tấn công Sài Gòn. Các trận giao tranh mở màn sẽ nhằm chiếm Buôn Mê Thuột, đánh thông sang Tuy Hòa và Phú Yên, cắt đôi vùng hạ du ở Quân khu 5 (và miền Nam Việt Nam), và tạo ra một hướng khác để từ đó mau chóng tiến về phía nam, uy hiếp Sài Gòn.
Các triển vọng đầy hứa hẹn đến mức Bộ Chính trị, theo một đề xuất của Tướng Giáp, đã ra lệnh cho Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị kế hoạch mới để chiếm toàn bộ Miền Nam Việt Nam trong năm 1975.
Hai ngày sau, Quân ủy Trung ương họp và đặt ra các mục tiêu cụ thể cho chiến dịch Tây Nguyên 1975:
- Tiêu diệt từ 4 đến 5 sư đoàn bộ binh địch, 1 đến 2 chiến đoàn thiết giáp, gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị thuộc Quân đoàn 2 VNCH.
- Giải phóng các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức, đặt thành phố Buôn Mê Thuột làm mục tiêu chính.
- Nếu thời cơ phát sinh, mở rộng cuộc tấn công lên phía bắc để giải phóng Pleiku và Kontum, hoặc sang phía đông để chiếm Phú Yên, Khánh Hòa.
Để thể hiện tầm quan trọng mà các nhà lãnh đạo đánh giá đối với chiến dịch, Tổng Tham mưu trưởng, Thượng tướng Văn Tiến Dũng nhận lệnh vào Buôn Mê Thuột ngay lập tức với tư cách phái viên của Bộ Chính trị và Bộ Tổng Tham mưu trong Chiến dịch Tây Nguyên.
Kế hoạch mới này của QĐNDVN đầy táo bạo và sáng tạo. Sau này, khi Sài Gòn đã sụp đổ, một vị tướng cao cấp của Miền Nam Việt Nam phát biểu rằng ông đã nhìn thấy ở chiến lược của QĐNDVN sự phản ánh thuật “tiếp cận gián tiếp” của B.H. Liddell Hart (***). Đòn đánh quyết định của QĐNDVN sẽ không nhằm vào quân đội chính của kẻ thù, mà vào những điểm chiến lược được phòng thủ yếu nhất mà đối phương lại không thể để mất được. Kế hoạch nhấn mạnh vào các nguyên tắc: tập trung binh lực, tốc độ, bất ngờ, nghi binh. Cuối cùng, việc chiếm Buôn Mê Thuột sẽ cho phép QĐNDVN lựa chọn bất kỳ nơi nào trong nhiều phương án để làm mục tiêu tấn công tiếp theo, do đó buộc VNCH vốn đã bị dàn mỏng phải vắt óc cố đoán xem QĐNDVN sẽ tấn công ở đâu tiếp theo. Việc triển khai kế hoạch này sẽ đặt Miền Nam Việt Nam vào một tình thế mà Liddell Hart rất thích bẫy kẻ thù của mình vào: “Lưỡng nan giữa muôn trùng gai”. Nó buộc các chỉ huy của VNCH phải phạm sai lầm và đảm bảo cho QĐNDVN chuẩn bị khai thác mọi thời cơ có thể.
Từ đây, mọi sự bắt đầu diễn tiến nhanh. Các đơn vị tham gia cuộc tấn công (gồm Sư đoàn số 10 và 320 của Mặt trận Tây Nguyên; Sư đoàn 968 từ Lào; Sư đoàn 316 tiến từ miền Bắc xuống phía nam; bốn trung đoàn bộ binh độc lập; các đơn vị tăng, pháo, và kỹ thuật; và 8.000 quân nhân tuyển mộ từ miền Bắc Việt Nam) bắt đầu tiến về điểm hẹn của họ. Mạng lưới tình báo tuyệt vời cho những người cộng sản biết rằng Miền Nam Việt Nam không hề hay biết gì về dự định thật của họ, cũng như họ đã giữ bí mật tuyệt đối lượng cung cấp hậu cần khổng lồ. Được đảm bảo như vậy, quân đội miền Bắc đã thực hiện một chiến dịch nghi binh vô cùng tinh xảo nhằm trực tiếp vào điểm mạnh nhất trong hệ thống tình báo của đối phương: hệ thống thiết bị điện tử và thám không của miền Nam Việt Nam và đồng minh Hoa Kỳ. Tại tất cả các đơn vị tham gia chiến dịch Tổng Tiến công, sóng vô tuyến đều im lặng tuyệt đối. Nhân viên tình báo của QĐNDVN gửi đi hàng trăm tín hiệu vô tuyến giả, tổ chức những đoàn xe tải di chuyển lộ liễu, và tiến hành các hoạt động làm đường – những con đường ma – tất cả đều nhằm làm Miền Nam Việt Nam tin rằng Sư đoàn số 10 và 320 của QĐNDVN đang tập trung về Pleiku và Kontum và hai thành phố ở phía bắc Tây Nguyên này là mục tiêu thật sự của Việt Cộng. Chiến dịch nghi binh hiệu quả đến nỗi các chỉ huy quân đội Miền Nam Việt Nam đã bỏ qua một số báo cáo từ các điệp viên và bản khai của tù binh cho thấy QĐNDVN thật ra đang sắp tấn công Buôn Mê Thuột.
Đến cuối tháng 2, tất cả các đơn vị QĐNDVN đều đã sẵn sàng. Ngày 1 tháng 3, Sư đoàn 968 tấn công vài đồn nhỏ ở phía tây Pleiku, thu hút sự chú ý của VNCH vào mối đe dọa đối với thành phố Pleiku. Ngày 4/3, chiến dịch của QĐNDVN bắt đầu với một cuộc tấn công của Sư đoàn 95A, phá tan vài đồn nhỏ của VNCH canh Đường 19 trên Đèo Mang Yang, do đó cắt đứt đường tiếp tế chính cho các lực lượng VNCH ở Tây Nguyên. Xa hơn ở phía đông, trên Đường 19, Sư đoàn số 3 QĐNDVN tổ chức tấn công cắt đứt tuyến đường huyết mạch này và uy hiếp Sư đoàn số 22 VNCH. Ngày tiếp theo, Trung đoàn số 25 của QĐNDVN cắt Đường 21 - con đường duy nhất còn lại nối từ bờ biển vào Tây Nguyên, nối Buôn Mê Thuột và Nha Trang. Các lực lượng VNCH ở Tây Nguyên giờ đây bị cô lập và hoàn toàn phụ thuộc vào tiếp tế từ trên không. Tuy nhiên, phương tiện vận tải hàng không nghèo nàn của không quân VNCH hoàn toàn không thích ứng với việc tiếp tế khẩn cấp ở quy mô này. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Chỉ huy của ông nhận ra rằng nếu Đường 19 và 21 không được mở lại sớm, các lực lượng VNCH ở Tây Nguyên sẽ nhanh chóng cạn kiệt lương thực, hết nhiên liệu và đạn dược. Ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 320 của QĐNDVN tràn ngập một huyện lỵ trên Đường 14 ở phía bắc Buôn Mê Thuột, cắt đường đi Pleiku và hoàn tất việc cô lập Buôn Mê Thuột. Sân khấu đã sẵn sàng cho cuộc tấn công cuối cùng của QĐNDVN, mà VNCH thì vẫn không đoán được Buôn Mê Thuột là mục tiêu.
Theo dõi các diễn biến từ Sài Gòn, Tổng thống Thiệu và Bộ Chỉ huy của ông không thể nào biết được đòn tiếp theo của cộng sản sẽ đánh vào đâu. Tiếp tục chiến dịch nghi binh của QĐNDVN và nhằm ngăn chặn lực lượng dự trữ của VNCH được chuyển lên để củng cố Tây Nguyên, trong những ngày trước khi đánh Buôn Mê Thuột, QĐNDVN tổ chức một đợt sóng các cuộc tấn công trên toàn Miền Nam Việt Nam. Ở phía bắc, vào ngày 5 tháng 3, công binh và du kích tấn công vùng hạ du Quảng Trị và Thừa Thiên, và ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 324 của QĐNDVN đánh mạnh vào tuyến phòng thủ chính của VNCH ở tây nam Huế. Về phía nam, ngày 7 tháng 3, quân đội cộng sản tiến hành một loạt vụ tấn công vào khu vực Sài Gòn và Đồng bằng Sông Cửu Long, mà đỉnh cao là chiếm một huyện lỵ chính ở phía tây bắc Sài Gòn. Tổng thống Thiệu và các tướng nghĩ nát óc. Rõ ràng là một cuộc tổng tiến công tổng lực của phe cộng sản diễn ra đến nơi rồi, nhưng đâu là mục tiêu chính? Đâu là nơi nguy hiểm nhất? Với Thiệu và các tướng, câu trả lời đã hiển nhiên: thủ đô Sài Gòn. Kế hoạch nghi binh của QĐNDVN đã diễn ra một cách hoàn hảo.
Ngày 9 tháng 3, Sư đoàn 10 của QĐNDVN, với hai trung đoàn bộ binh (số 26 và 66) và được yểm trợ chỉ với hai khẩu lựu pháo 105mm, 50 viên đạn, tấn công và đánh chiếm Đức Lập cùng toàn bộ các vị trí phòng thủ ở đó trong vòng 24 tiếng. VNCH mất ở đây tổng cộng ba tiểu đoàn, 14 khẩu pháo và 20 xe tăng. Sau khi củng cố chiến thắng, Sư đoàn 10 tiến theo hướng bắc, lên Buôn Mê Thuột.
Rạng sáng 10 tháng 3, 12 trung đoàn QĐNDVN tổ chức tiến công bất ngờ mãnh liệt vào Buôn Mê Thuột. Sư đoàn công binh 198 và hai tiểu đoàn bộ binh đã bí mật lọt vào thành phố từ trước, sau đó tấn công hai sân bay của Buôn Mê Thuột, kho chứa hàng tiếp tế Mai Hắc Đế, và đầu não của Sư đoàn số 23 VNCH. 5 trung đoàn bộ binh (ba từ Sư đoàn 316, Trung đoàn số 24 thuộc Sư đoàn 10, và các chiến binh lão luyện của Trung đoàn 95B thuộc Sư đoàn 325) tiến vào thành phố từ ba hướng, dẫn đường là xe tăng và xe chở thiết giáp của Trung đoàn Thiết giáp số 273, và dưới một lưới lửa tạo bởi 78 súng hạng nặng của Trung đoàn pháo số 40 và 675. Trung đoàn chống máy bay 232 và 234 đi kèm các mũi tấn công, tạo ra một chiếc ô hỏa lực chắn máy bay rát đến mức các đợt tấn công bằng bom của không quân VNCH hầu như đều vô hiệu và gây hại cho chính quân đội họ ngang với cho đối phương. Sau 32 giờ giao tranh, các lực lượng QĐNDVN phá tan đầu não của Sư đoàn 23, bắt sống Phó tư lệnh Sư đoàn. Tướng Dũng báo về Hà Nội rằng quân của ông đã thu được 12 khẩu pháo và 100 tấn đạn pháo ở Buôn Mê Thuột. Điều này đảm bảo với Bộ Tổng Tham mưu rằng chiến dịch sẽ tiến triển mà không bị cản trở bởi nỗi lo thiếu đạn. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt ngay lập tức nhận ra tầm quan trọng của chiến thắng này. Trong suốt cuộc họp Bộ Chính trị vào 11/3, Lê Duẩn thảo luận về khả năng thời cơ chiến lược - thời điểm để tiến hành cuộc tổng tiến công cuối cùng - sắp đến. Chiến thắng trong chiến tranh sẽ đến với bên nào sẵn sàng đón lấy nó. Miền Bắc Việt Nam đã sẵn sàng.
Hồi trống trận tiến công lúc đầu dường như nhằm vào Pleiku, sau là vào Sài Gòn và Huế, và bây giờ, thật bất ngờ, lại là cuộc tấn công Buôn Mê Thuột. Đó là những đòn tâm lý làm choáng váng các nhà lãnh đạo phía VNCH. Bối rối, tuyệt vọng, và hẳn là trong trạng thái sốc thực sự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra hai quyết định trọng yếu vào ngày 10 và 11 tháng 3, đánh dấu chấm hết cho số phận của Miền Nam Việt Nam. Việc đầu tiên là Thiệu ra lệnh rút lập tức Sư đoàn Kỵ binh bay VNCH, vốn là nền tảng phòng thủ của Quân đoàn 1, để về chống đỡ cho Sài Gòn. Khi các chỉ huy của VNCH cố gắng rút những đơn vị này về và tái triển khai để lấp đầy lỗ hổng để lại sau khi Sư đoàn Kỵ binh bay đã rút đi, hệ thống phòng thủ của Quân đoàn 2 bắt đầu nghiêng ngả như một căn nhà xây bằng các lá bài.
Tiếp theo, đúng như Miền Bắc Việt Nam đã đoán trước, Thiệu ra lệnh phản công lập tức để chiếm lại Buôn Mê Thuột “bằng mọi giá”. Do đường lên Buôn Mê Thuột đã bị cắt, viên chỉ huy Quân đoàn II của VNCH, Tướng Phạm Văn Phú, buộc phải dùng trực thăng đưa hai trung đoàn còn lại trong Sư đoàn 23 của ông lên trận địa, thả 5 tiểu đoàn vào một khu đất ở phía đông Buôn Mê Thuột trong thời gian từ ngày 12 tới 14 tháng 3 mà không có xe tăng và chỉ có sự trợ lực giới hạn của pháo binh. Trung đoàn đã hạ cánh vào chính giữa “vùng chết” (quyết chiến điểm) mà QĐNDVN giăng ra. Sư đoàn 10 của QĐNDVN, vừa trở về từ Đức Lập, có xe tăng và pháo binh hùng mạnh yểm trợ, đã chờ sẵn. Trong một cuộc tấn công chớp choáng bốn ngày, Sư đoàn 10 tràn lên và đánh tan hoang phần còn lại của Sư đoàn 23 và Chiến đoàn Biệt động quân số 21. Trong lúc đó thì với những kẻ hấp hối trong đội quân một thời hùng mạnh của VNCH ở Tây Nguyên, khi đường tiếp viện đã bị cắt và không còn hy vọng được cung ứng thêm hay cứu trợ, số phận của họ đã được định đoạt. Mệnh lệnh ngày 14 tháng 3 của Thiệu rút các lực lượng khỏi Pleiku xuống theo Đường 7B ra biển là một hành động tuyệt vọng nhằm cứu vãn những gì còn lại của lực lượng VNCH ở Tây Nguyên. Mệnh lệnh ngu ngốc, thực hiện kém cỏi, nhưng trong tình hình ấy thì đó là điều có thể hiểu được.
Khi các đoàn quân của Tướng Dũng hoàn tất việc tiêu diệt mũi rút lui của VNCH khỏi Pleiku, Tướng Giáp ra lệnh cho các lực lượng của ông xung quanh Huế đi vòng qua tuyến phòng thủ của VNCH – những dãy núi đã cản trở các cuộc tấn công trước kia của QĐNDVN. Ông Giáp ra lệnh cho Quân đoàn 2 QĐNDVN phái Sư đoàn 324 và 325 đánh trực tiếp vào vùng hạ du ở duyên hải, cắt đứt Đường 1 - đường rút lui chính của VNCH - và phá tan các đoàn quân tháo chạy trước khi họ có thể tập hợp và củng cố lại. Bị kẹt giữa đồng không mông quạnh, bị cô lập và cắt mọi đường tiếp tế, các đơn vị VNCH trên đường rút lui trong hoảng loạn đã bị quét sạch. Tới ngày 29 tháng 4, Huế, Đà Nẵng, và toàn bộ Quân đoàn 1 của VNCH đã nằm trong tay những người cộng sản.
Hồi kết
Trong khi đó, trong một phiên họp lịch sử của Bộ Chính trị vào ngày 18 tháng 3, Tướng Giáp đã đóng nhát búa cuối cùng vào cỗ quan tài của chế độ Miền Nam Việt Nam với một quyết định chiến lược lớn cuối cùng trong sự nghiệp quân sự chói sáng của ông. Giáp tuyên bố rằng cơ hội chiến lược chờ đợi từ bao lâu nay đã đến. Ông lệnh cho QĐNDVN ngay lập tức tổ chức một cuộc tổng tiến công trên toàn chiến trường để kiểm soát hoàn toàn Miền Nam Việt Nam ngay trong năm 1975. Lực lượng dự bị chiến lược cuối cùng của Miền Bắc Việt Nam - Quân đoàn số 1 tinh hoa - bây giờ đã đến lúc xung trận. Bộ Chính trị tức tốc phê chuẩn đề nghị của Tướng Giáp và ra lệnh tổng tiến công Sài Gòn từ mọi hướng.
Với quyết định này, kết cục của cuộc chiến không còn gì phải nghi ngờ nữa. Giấy báo tử coi 30 tháng 4 năm 1975 là ngày giỗ, nhưng phát súng hạ gục VNCH đã được bắn từ ngày 18 tháng 3 bởi Tướng Võ Nguyên Giáp. Trái ngược với việc ông từ lâu đã có tiếng là một con người tàn nhẫn, chiến thắng cuối cùng này của Tướng Giáp đồng thời cũng là chiến thắng ít đổ máu nhất.
(***) Liddel Hart (1895-1970), nhà tư tưởng quân sự người Anh, đưa ra khái niệm chiến lược “tiếp cận gián tiếp”, nghĩa là thay vì tấn công trực tiếp thì đánh vào chỗ đối phương không ngờ tới (ví dụ tập hậu, tạt sườn…).
+++++++++++
Đoan Trang dịch từ nguyên tác North Vietnam's Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil - “Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Tác giả Merle L. Pribbenow tốt nghiệp Đại học Washington năm 1968, chuyên ngành khoa học chính trị. Ông là nhân viên Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Đông Dương, có 27 năm kinh nghiệm nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có 5 năm làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tính đến ngày 29/4/1975. Kể từ khi về hưu (năm 1995), ông đã viết ba bài nghiên cứu lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và dịch một cuốn sách của Bộ Quốc phòng Việt Nam sang tiếng Anh, xuất bản tháng 5/2002 tại Mỹ.
Các triển vọng đầy hứa hẹn đến mức Bộ Chính trị, theo một đề xuất của Tướng Giáp, đã ra lệnh cho Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị kế hoạch mới để chiếm toàn bộ Miền Nam Việt Nam trong năm 1975.
Hai ngày sau, Quân ủy Trung ương họp và đặt ra các mục tiêu cụ thể cho chiến dịch Tây Nguyên 1975:
- Tiêu diệt từ 4 đến 5 sư đoàn bộ binh địch, 1 đến 2 chiến đoàn thiết giáp, gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị thuộc Quân đoàn 2 VNCH.
- Giải phóng các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức, đặt thành phố Buôn Mê Thuột làm mục tiêu chính.
- Nếu thời cơ phát sinh, mở rộng cuộc tấn công lên phía bắc để giải phóng Pleiku và Kontum, hoặc sang phía đông để chiếm Phú Yên, Khánh Hòa.
Để thể hiện tầm quan trọng mà các nhà lãnh đạo đánh giá đối với chiến dịch, Tổng Tham mưu trưởng, Thượng tướng Văn Tiến Dũng nhận lệnh vào Buôn Mê Thuột ngay lập tức với tư cách phái viên của Bộ Chính trị và Bộ Tổng Tham mưu trong Chiến dịch Tây Nguyên.
Kế hoạch mới này của QĐNDVN đầy táo bạo và sáng tạo. Sau này, khi Sài Gòn đã sụp đổ, một vị tướng cao cấp của Miền Nam Việt Nam phát biểu rằng ông đã nhìn thấy ở chiến lược của QĐNDVN sự phản ánh thuật “tiếp cận gián tiếp” của B.H. Liddell Hart (***). Đòn đánh quyết định của QĐNDVN sẽ không nhằm vào quân đội chính của kẻ thù, mà vào những điểm chiến lược được phòng thủ yếu nhất mà đối phương lại không thể để mất được. Kế hoạch nhấn mạnh vào các nguyên tắc: tập trung binh lực, tốc độ, bất ngờ, nghi binh. Cuối cùng, việc chiếm Buôn Mê Thuột sẽ cho phép QĐNDVN lựa chọn bất kỳ nơi nào trong nhiều phương án để làm mục tiêu tấn công tiếp theo, do đó buộc VNCH vốn đã bị dàn mỏng phải vắt óc cố đoán xem QĐNDVN sẽ tấn công ở đâu tiếp theo. Việc triển khai kế hoạch này sẽ đặt Miền Nam Việt Nam vào một tình thế mà Liddell Hart rất thích bẫy kẻ thù của mình vào: “Lưỡng nan giữa muôn trùng gai”. Nó buộc các chỉ huy của VNCH phải phạm sai lầm và đảm bảo cho QĐNDVN chuẩn bị khai thác mọi thời cơ có thể.
Từ đây, mọi sự bắt đầu diễn tiến nhanh. Các đơn vị tham gia cuộc tấn công (gồm Sư đoàn số 10 và 320 của Mặt trận Tây Nguyên; Sư đoàn 968 từ Lào; Sư đoàn 316 tiến từ miền Bắc xuống phía nam; bốn trung đoàn bộ binh độc lập; các đơn vị tăng, pháo, và kỹ thuật; và 8.000 quân nhân tuyển mộ từ miền Bắc Việt Nam) bắt đầu tiến về điểm hẹn của họ. Mạng lưới tình báo tuyệt vời cho những người cộng sản biết rằng Miền Nam Việt Nam không hề hay biết gì về dự định thật của họ, cũng như họ đã giữ bí mật tuyệt đối lượng cung cấp hậu cần khổng lồ. Được đảm bảo như vậy, quân đội miền Bắc đã thực hiện một chiến dịch nghi binh vô cùng tinh xảo nhằm trực tiếp vào điểm mạnh nhất trong hệ thống tình báo của đối phương: hệ thống thiết bị điện tử và thám không của miền Nam Việt Nam và đồng minh Hoa Kỳ. Tại tất cả các đơn vị tham gia chiến dịch Tổng Tiến công, sóng vô tuyến đều im lặng tuyệt đối. Nhân viên tình báo của QĐNDVN gửi đi hàng trăm tín hiệu vô tuyến giả, tổ chức những đoàn xe tải di chuyển lộ liễu, và tiến hành các hoạt động làm đường – những con đường ma – tất cả đều nhằm làm Miền Nam Việt Nam tin rằng Sư đoàn số 10 và 320 của QĐNDVN đang tập trung về Pleiku và Kontum và hai thành phố ở phía bắc Tây Nguyên này là mục tiêu thật sự của Việt Cộng. Chiến dịch nghi binh hiệu quả đến nỗi các chỉ huy quân đội Miền Nam Việt Nam đã bỏ qua một số báo cáo từ các điệp viên và bản khai của tù binh cho thấy QĐNDVN thật ra đang sắp tấn công Buôn Mê Thuột.
Đến cuối tháng 2, tất cả các đơn vị QĐNDVN đều đã sẵn sàng. Ngày 1 tháng 3, Sư đoàn 968 tấn công vài đồn nhỏ ở phía tây Pleiku, thu hút sự chú ý của VNCH vào mối đe dọa đối với thành phố Pleiku. Ngày 4/3, chiến dịch của QĐNDVN bắt đầu với một cuộc tấn công của Sư đoàn 95A, phá tan vài đồn nhỏ của VNCH canh Đường 19 trên Đèo Mang Yang, do đó cắt đứt đường tiếp tế chính cho các lực lượng VNCH ở Tây Nguyên. Xa hơn ở phía đông, trên Đường 19, Sư đoàn số 3 QĐNDVN tổ chức tấn công cắt đứt tuyến đường huyết mạch này và uy hiếp Sư đoàn số 22 VNCH. Ngày tiếp theo, Trung đoàn số 25 của QĐNDVN cắt Đường 21 - con đường duy nhất còn lại nối từ bờ biển vào Tây Nguyên, nối Buôn Mê Thuột và Nha Trang. Các lực lượng VNCH ở Tây Nguyên giờ đây bị cô lập và hoàn toàn phụ thuộc vào tiếp tế từ trên không. Tuy nhiên, phương tiện vận tải hàng không nghèo nàn của không quân VNCH hoàn toàn không thích ứng với việc tiếp tế khẩn cấp ở quy mô này. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Chỉ huy của ông nhận ra rằng nếu Đường 19 và 21 không được mở lại sớm, các lực lượng VNCH ở Tây Nguyên sẽ nhanh chóng cạn kiệt lương thực, hết nhiên liệu và đạn dược. Ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 320 của QĐNDVN tràn ngập một huyện lỵ trên Đường 14 ở phía bắc Buôn Mê Thuột, cắt đường đi Pleiku và hoàn tất việc cô lập Buôn Mê Thuột. Sân khấu đã sẵn sàng cho cuộc tấn công cuối cùng của QĐNDVN, mà VNCH thì vẫn không đoán được Buôn Mê Thuột là mục tiêu.
Theo dõi các diễn biến từ Sài Gòn, Tổng thống Thiệu và Bộ Chỉ huy của ông không thể nào biết được đòn tiếp theo của cộng sản sẽ đánh vào đâu. Tiếp tục chiến dịch nghi binh của QĐNDVN và nhằm ngăn chặn lực lượng dự trữ của VNCH được chuyển lên để củng cố Tây Nguyên, trong những ngày trước khi đánh Buôn Mê Thuột, QĐNDVN tổ chức một đợt sóng các cuộc tấn công trên toàn Miền Nam Việt Nam. Ở phía bắc, vào ngày 5 tháng 3, công binh và du kích tấn công vùng hạ du Quảng Trị và Thừa Thiên, và ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 324 của QĐNDVN đánh mạnh vào tuyến phòng thủ chính của VNCH ở tây nam Huế. Về phía nam, ngày 7 tháng 3, quân đội cộng sản tiến hành một loạt vụ tấn công vào khu vực Sài Gòn và Đồng bằng Sông Cửu Long, mà đỉnh cao là chiếm một huyện lỵ chính ở phía tây bắc Sài Gòn. Tổng thống Thiệu và các tướng nghĩ nát óc. Rõ ràng là một cuộc tổng tiến công tổng lực của phe cộng sản diễn ra đến nơi rồi, nhưng đâu là mục tiêu chính? Đâu là nơi nguy hiểm nhất? Với Thiệu và các tướng, câu trả lời đã hiển nhiên: thủ đô Sài Gòn. Kế hoạch nghi binh của QĐNDVN đã diễn ra một cách hoàn hảo.
Ngày 9 tháng 3, Sư đoàn 10 của QĐNDVN, với hai trung đoàn bộ binh (số 26 và 66) và được yểm trợ chỉ với hai khẩu lựu pháo 105mm, 50 viên đạn, tấn công và đánh chiếm Đức Lập cùng toàn bộ các vị trí phòng thủ ở đó trong vòng 24 tiếng. VNCH mất ở đây tổng cộng ba tiểu đoàn, 14 khẩu pháo và 20 xe tăng. Sau khi củng cố chiến thắng, Sư đoàn 10 tiến theo hướng bắc, lên Buôn Mê Thuột.
Rạng sáng 10 tháng 3, 12 trung đoàn QĐNDVN tổ chức tiến công bất ngờ mãnh liệt vào Buôn Mê Thuột. Sư đoàn công binh 198 và hai tiểu đoàn bộ binh đã bí mật lọt vào thành phố từ trước, sau đó tấn công hai sân bay của Buôn Mê Thuột, kho chứa hàng tiếp tế Mai Hắc Đế, và đầu não của Sư đoàn số 23 VNCH. 5 trung đoàn bộ binh (ba từ Sư đoàn 316, Trung đoàn số 24 thuộc Sư đoàn 10, và các chiến binh lão luyện của Trung đoàn 95B thuộc Sư đoàn 325) tiến vào thành phố từ ba hướng, dẫn đường là xe tăng và xe chở thiết giáp của Trung đoàn Thiết giáp số 273, và dưới một lưới lửa tạo bởi 78 súng hạng nặng của Trung đoàn pháo số 40 và 675. Trung đoàn chống máy bay 232 và 234 đi kèm các mũi tấn công, tạo ra một chiếc ô hỏa lực chắn máy bay rát đến mức các đợt tấn công bằng bom của không quân VNCH hầu như đều vô hiệu và gây hại cho chính quân đội họ ngang với cho đối phương. Sau 32 giờ giao tranh, các lực lượng QĐNDVN phá tan đầu não của Sư đoàn 23, bắt sống Phó tư lệnh Sư đoàn. Tướng Dũng báo về Hà Nội rằng quân của ông đã thu được 12 khẩu pháo và 100 tấn đạn pháo ở Buôn Mê Thuột. Điều này đảm bảo với Bộ Tổng Tham mưu rằng chiến dịch sẽ tiến triển mà không bị cản trở bởi nỗi lo thiếu đạn. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt ngay lập tức nhận ra tầm quan trọng của chiến thắng này. Trong suốt cuộc họp Bộ Chính trị vào 11/3, Lê Duẩn thảo luận về khả năng thời cơ chiến lược - thời điểm để tiến hành cuộc tổng tiến công cuối cùng - sắp đến. Chiến thắng trong chiến tranh sẽ đến với bên nào sẵn sàng đón lấy nó. Miền Bắc Việt Nam đã sẵn sàng.
Hồi trống trận tiến công lúc đầu dường như nhằm vào Pleiku, sau là vào Sài Gòn và Huế, và bây giờ, thật bất ngờ, lại là cuộc tấn công Buôn Mê Thuột. Đó là những đòn tâm lý làm choáng váng các nhà lãnh đạo phía VNCH. Bối rối, tuyệt vọng, và hẳn là trong trạng thái sốc thực sự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra hai quyết định trọng yếu vào ngày 10 và 11 tháng 3, đánh dấu chấm hết cho số phận của Miền Nam Việt Nam. Việc đầu tiên là Thiệu ra lệnh rút lập tức Sư đoàn Kỵ binh bay VNCH, vốn là nền tảng phòng thủ của Quân đoàn 1, để về chống đỡ cho Sài Gòn. Khi các chỉ huy của VNCH cố gắng rút những đơn vị này về và tái triển khai để lấp đầy lỗ hổng để lại sau khi Sư đoàn Kỵ binh bay đã rút đi, hệ thống phòng thủ của Quân đoàn 2 bắt đầu nghiêng ngả như một căn nhà xây bằng các lá bài.
Tiếp theo, đúng như Miền Bắc Việt Nam đã đoán trước, Thiệu ra lệnh phản công lập tức để chiếm lại Buôn Mê Thuột “bằng mọi giá”. Do đường lên Buôn Mê Thuột đã bị cắt, viên chỉ huy Quân đoàn II của VNCH, Tướng Phạm Văn Phú, buộc phải dùng trực thăng đưa hai trung đoàn còn lại trong Sư đoàn 23 của ông lên trận địa, thả 5 tiểu đoàn vào một khu đất ở phía đông Buôn Mê Thuột trong thời gian từ ngày 12 tới 14 tháng 3 mà không có xe tăng và chỉ có sự trợ lực giới hạn của pháo binh. Trung đoàn đã hạ cánh vào chính giữa “vùng chết” (quyết chiến điểm) mà QĐNDVN giăng ra. Sư đoàn 10 của QĐNDVN, vừa trở về từ Đức Lập, có xe tăng và pháo binh hùng mạnh yểm trợ, đã chờ sẵn. Trong một cuộc tấn công chớp choáng bốn ngày, Sư đoàn 10 tràn lên và đánh tan hoang phần còn lại của Sư đoàn 23 và Chiến đoàn Biệt động quân số 21. Trong lúc đó thì với những kẻ hấp hối trong đội quân một thời hùng mạnh của VNCH ở Tây Nguyên, khi đường tiếp viện đã bị cắt và không còn hy vọng được cung ứng thêm hay cứu trợ, số phận của họ đã được định đoạt. Mệnh lệnh ngày 14 tháng 3 của Thiệu rút các lực lượng khỏi Pleiku xuống theo Đường 7B ra biển là một hành động tuyệt vọng nhằm cứu vãn những gì còn lại của lực lượng VNCH ở Tây Nguyên. Mệnh lệnh ngu ngốc, thực hiện kém cỏi, nhưng trong tình hình ấy thì đó là điều có thể hiểu được.
Khi các đoàn quân của Tướng Dũng hoàn tất việc tiêu diệt mũi rút lui của VNCH khỏi Pleiku, Tướng Giáp ra lệnh cho các lực lượng của ông xung quanh Huế đi vòng qua tuyến phòng thủ của VNCH – những dãy núi đã cản trở các cuộc tấn công trước kia của QĐNDVN. Ông Giáp ra lệnh cho Quân đoàn 2 QĐNDVN phái Sư đoàn 324 và 325 đánh trực tiếp vào vùng hạ du ở duyên hải, cắt đứt Đường 1 - đường rút lui chính của VNCH - và phá tan các đoàn quân tháo chạy trước khi họ có thể tập hợp và củng cố lại. Bị kẹt giữa đồng không mông quạnh, bị cô lập và cắt mọi đường tiếp tế, các đơn vị VNCH trên đường rút lui trong hoảng loạn đã bị quét sạch. Tới ngày 29 tháng 4, Huế, Đà Nẵng, và toàn bộ Quân đoàn 1 của VNCH đã nằm trong tay những người cộng sản.
Hồi kết
Trong khi đó, trong một phiên họp lịch sử của Bộ Chính trị vào ngày 18 tháng 3, Tướng Giáp đã đóng nhát búa cuối cùng vào cỗ quan tài của chế độ Miền Nam Việt Nam với một quyết định chiến lược lớn cuối cùng trong sự nghiệp quân sự chói sáng của ông. Giáp tuyên bố rằng cơ hội chiến lược chờ đợi từ bao lâu nay đã đến. Ông lệnh cho QĐNDVN ngay lập tức tổ chức một cuộc tổng tiến công trên toàn chiến trường để kiểm soát hoàn toàn Miền Nam Việt Nam ngay trong năm 1975. Lực lượng dự bị chiến lược cuối cùng của Miền Bắc Việt Nam - Quân đoàn số 1 tinh hoa - bây giờ đã đến lúc xung trận. Bộ Chính trị tức tốc phê chuẩn đề nghị của Tướng Giáp và ra lệnh tổng tiến công Sài Gòn từ mọi hướng.
Với quyết định này, kết cục của cuộc chiến không còn gì phải nghi ngờ nữa. Giấy báo tử coi 30 tháng 4 năm 1975 là ngày giỗ, nhưng phát súng hạ gục VNCH đã được bắn từ ngày 18 tháng 3 bởi Tướng Võ Nguyên Giáp. Trái ngược với việc ông từ lâu đã có tiếng là một con người tàn nhẫn, chiến thắng cuối cùng này của Tướng Giáp đồng thời cũng là chiến thắng ít đổ máu nhất.
(***) Liddel Hart (1895-1970), nhà tư tưởng quân sự người Anh, đưa ra khái niệm chiến lược “tiếp cận gián tiếp”, nghĩa là thay vì tấn công trực tiếp thì đánh vào chỗ đối phương không ngờ tới (ví dụ tập hậu, tạt sườn…).
+++++++++++
Đoan Trang dịch từ nguyên tác North Vietnam's Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil - “Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Tác giả Merle L. Pribbenow tốt nghiệp Đại học Washington năm 1968, chuyên ngành khoa học chính trị. Ông là nhân viên Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Đông Dương, có 27 năm kinh nghiệm nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có 5 năm làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tính đến ngày 29/4/1975. Kể từ khi về hưu (năm 1995), ông đã viết ba bài nghiên cứu lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và dịch một cuốn sách của Bộ Quốc phòng Việt Nam sang tiếng Anh, xuất bản tháng 5/2002 tại Mỹ.
Friday, 23 April 2010
Nhân vụ “TS Đỗ Ngọc Bích”, nhớ lại vài nguyên tắc báo chí
“Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” là tựa đề bài viết đăng ngày 17/4 trên BBC Việt ngữ của tác giả Đỗ Ngọc Bích. Chị Bích là một Facebook friend của tôi, do đó tôi đã chú ý đọc bài này ngay hôm BBC đăng tải. Nói chung thì chỉ cần lướt qua một lần là đủ thấy bài viết sẽ gây phản ứng như thế nào trong dư luận độc giả.
Để phân tích tỉ mỉ từng ý, từng câu chữ, chỉ ra từng điểm đúng và chưa đúng về mặt học thuật, thì mất thời gian và nhiều bạn đọc của BBC đã làm rồi. Ở đây, tôi chỉ muốn nhận xét bài như một biên tập viên bình thường đọc bài của một cây viết nào đó.
Tôi không nghĩ chị Bích là “Hán gian” hay “Việt gian”, “điệp Tàu”, v.v. Nếu có thể nhận xét ngắn gọn, tôi chỉ thấy chị… dại, với tư cách một người viết. Không nói chuyện học thuật, kiến thức lịch sử, kiến thức về quan hệ quốc tế, xét thuần túy về mặt báo chí, chị Bích vi phạm một nguyên tắc quan trọng: phải hiểu tâm lý độc giả trước khi viết.
Tâm lý của độc giả, khán giả, thính giả… chúng ta nói chung là “thích những nội dung sẽ củng cố thái độ, quan niệm hiện thời của chúng ta, và ta có xu hướng phản ứng với những ý tưởng đi ngược lại niềm tin của mình. Do vậy, nhà sản xuất (chương trình truyền hình)/ người làm báo v.v. phải cẩn thận trong việc đưa ra những ý tưởng có thể sẽ “chà đạp” lên các quan niệm vốn phổ biến.” (Ron Whittaker)
Điều này có nghĩa là người viết nói chung nên tránh những chủ đề “đi ngược lại niềm tin cố hữu” của độc giả. Vì vậy, nếu bạn định viết “mặc quần là khiêu dâm, cởi truồng mới là đứng đắn” thì cần chuẩn bị tinh thần nghe chửi, tốt nhất là mua lấy cái rổ trước đã. Khi bạn đang ở Angola thì đừng dại mà gọi người dân ở đó là lũ mọi đen không có ngôn ngữ riêng, phải dùng tiếng Bồ Đào Nha, thật là thiếu bản sắc, chao ôi quả là nhục .v.v.
Ai cũng biết quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, kiểu quan hệ giữa một nước nhỏ và một nước lớn ở bên cạnh nhau (nghĩa đen), luôn luôn tiềm ẩn khả năng bùng nổ mâu thuẫn, xung đột. Không riêng Việt Nam với Trung Quốc mà tất cả các nước nhỏ ở cạnh nước lớn đều có thể bị chèn ép hoặc ít nhất cũng có tâm lý của kẻ bị bắt nạt. Tôi từng gặp một vài người Nauy rất ghét nước Nga, vì “ngày xưa chúng nó lấy đất của chúng tao”. Huống chi Trung Quốc hành xử chưa bao giờ là đàn anh, độ lượng với các láng giềng – cái này liệt kê bằng chứng ra chắc là cần cả chục công trình nghiên cứu.
Vì lẽ đó, xét về khía cạnh tâm lý, người Việt Nam rất khó tránh khỏi cảm giác ghét bỏ Trung Quốc – gần như một mối “cừu thù” nằm sâu trong tiềm thức. Chị Đỗ Ngọc Bích lại “khiêu khích” người đọc bằng một bài viết với nhiều lời lẽ đả kích như vậy, thì chưa cần biết chị nói đúng/ sai thế nào, có bị nguyền rủa, đe dọa cũng là dễ hiểu.
Cần nói rõ thêm, nguyên tắc trên chỉ áp dụng cho báo chí. Nếu chị Bích viết bài “Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” và đưa lên bích báo của lớp 10A trường PTTH ABC xã XYZ gì đó, hoặc viết xong cất vào nhật ký, thì chẳng sao. Nếu chị Bích có cả một công trình nghiên cứu đồ sộ, cỡ đề tài khoa học cấp Bộ, Nhà nước… chứng minh sự lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc, tổ tiên người Việt là người Trung Quốc… thì việc phản biện xin dành cho cơ quan chủ quản và các nhà khoa học. Có điều trường hợp này thì khác hẳn, bởi chị đang viết cho một tờ báo – trang mạng của BBC Việt ngữ.
Như vậy phải chăng là nhà báo không thể viết những điều “có thể sẽ ‘chà đạp’ lên các quan niệm vốn phổ biến”? Câu trả lời tùy quan niệm mỗi người. Cá nhân tôi cho rằng nếu viết, nhà báo phải cực kỳ thận trọng, khéo léo, cân nhắc từng từ ngữ, lập luận chặt chẽ và đầy đủ căn cứ. Cần khẳng định ngay là kể cả làm như vậy cũng không đảm bảo 100% độc giả sẽ “nhất trí cao” với người viết, và nói chung các chiến hữu làm báo chắc ai trong đời cũng ít nhất một lần bị chửi te tua.
Ngoài ra, có những chủ đề nhà báo tuyệt đối không nên động vào, nếu chủ đề đó có nguy cơ rơi vào một trong các trường hợp sau: kích động bạo lực, tội ác, kích động hằn thù dân tộc, cổ vũ cho sự phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào - kỳ thị chủng tộc, giới tính, tôn giáo, địa phương, v.v. Một người bạn (đồng tính) của tôi nói rằng, anh căm thù những tựa báo kiểu như “Giết bạn tình đồng tính”, “Hai người đồng tính giết người cướp của”, "Đêm thác loạn của gay", “Một kiếp bị giời đầy”, vân vân và vân vân.
Chị Bích có thể nói rằng mình không phải nhà báo, tuy nhiên bài viết của chị lại là dành cho một cơ quan truyền thông đại chúng, vì vậy nếu chị không nhận lỗi thì lỗi này sẽ được “kính chuyển” từ chị sang tòa soạn. Không thể trách độc giả đã mạt sát chị. Không thể nào tuyên bố: “Tôi không đọc, không chấp nhận, và không đáp lại những lời lẽ xúc phạm thô bỉ của những người phê phán, chỉ trích tôi”.
Cuối cùng, xin chia sẻ với các bạn làm báo và không làm báo một “bí kíp” – đúng hơn là lời khuyên tôi nhận được từ một nhân vật từng phỏng vấn: “Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, người viết phải viết sao để chính quyền (buộc) phải lắng nghe, nhân dân yêu mến, và kẻ thù thì không thể lợi dụng”.
Bài viết của chị Đỗ Ngọc Bích chắc chắn không được nhân dân yêu mến, kẻ thù của Việt Nam hoàn toàn có thể lợi dụng, còn chính quyền Việt Nam ngày nay cũng như chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 hẳn cũng chẳng vui gì.
Với một bài báo vi phạm hoàn toàn các nguyên tắc hay là tiêu chuẩn của báo chí như vậy, không hiểu tác giả viết làm chi?...
+++++
Bổ sung thêm một đoạn: Trong bài trả lời độc giả, chị Đỗ Ngọc Bích cho biết chị viết vì "muốn tìm ra nguyên cớ tại sao họ (các blogger trong nước và hải ngoại) ghét TQ và một số lãnh đạo VN đến thế, và cố gắng làm cho họ bớt thù hận, bình tĩnh, rộng lượng hơn một chút với một số bối cảnh ngoại giao Việt Trung hiện thời". Đến đây tôi xin trở lại ý trên: Nếu viết, nhà báo phải cực kỳ thận trọng, khéo léo, cân nhắc từng từ ngữ, lập luận chặt chẽ và đầy đủ căn cứ.
Theo ngu ý của tôi thì cũng với những ý đó của chị Bích, một nhà báo rất tài năng có thể cho ra một bài viết không đến nỗi hứng một trận mưa chửi. Người viết tay nghề vừa phải thì chẳng nên liều, như nhà em thì chạy cho mau, kiểu như "các cụ" ta dạy "đã yếu đừng ra gió" ấy mà!
Để phân tích tỉ mỉ từng ý, từng câu chữ, chỉ ra từng điểm đúng và chưa đúng về mặt học thuật, thì mất thời gian và nhiều bạn đọc của BBC đã làm rồi. Ở đây, tôi chỉ muốn nhận xét bài như một biên tập viên bình thường đọc bài của một cây viết nào đó.
Tôi không nghĩ chị Bích là “Hán gian” hay “Việt gian”, “điệp Tàu”, v.v. Nếu có thể nhận xét ngắn gọn, tôi chỉ thấy chị… dại, với tư cách một người viết. Không nói chuyện học thuật, kiến thức lịch sử, kiến thức về quan hệ quốc tế, xét thuần túy về mặt báo chí, chị Bích vi phạm một nguyên tắc quan trọng: phải hiểu tâm lý độc giả trước khi viết.
Tâm lý của độc giả, khán giả, thính giả… chúng ta nói chung là “thích những nội dung sẽ củng cố thái độ, quan niệm hiện thời của chúng ta, và ta có xu hướng phản ứng với những ý tưởng đi ngược lại niềm tin của mình. Do vậy, nhà sản xuất (chương trình truyền hình)/ người làm báo v.v. phải cẩn thận trong việc đưa ra những ý tưởng có thể sẽ “chà đạp” lên các quan niệm vốn phổ biến.” (Ron Whittaker)
Điều này có nghĩa là người viết nói chung nên tránh những chủ đề “đi ngược lại niềm tin cố hữu” của độc giả. Vì vậy, nếu bạn định viết “mặc quần là khiêu dâm, cởi truồng mới là đứng đắn” thì cần chuẩn bị tinh thần nghe chửi, tốt nhất là mua lấy cái rổ trước đã. Khi bạn đang ở Angola thì đừng dại mà gọi người dân ở đó là lũ mọi đen không có ngôn ngữ riêng, phải dùng tiếng Bồ Đào Nha, thật là thiếu bản sắc, chao ôi quả là nhục .v.v.
Ai cũng biết quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, kiểu quan hệ giữa một nước nhỏ và một nước lớn ở bên cạnh nhau (nghĩa đen), luôn luôn tiềm ẩn khả năng bùng nổ mâu thuẫn, xung đột. Không riêng Việt Nam với Trung Quốc mà tất cả các nước nhỏ ở cạnh nước lớn đều có thể bị chèn ép hoặc ít nhất cũng có tâm lý của kẻ bị bắt nạt. Tôi từng gặp một vài người Nauy rất ghét nước Nga, vì “ngày xưa chúng nó lấy đất của chúng tao”. Huống chi Trung Quốc hành xử chưa bao giờ là đàn anh, độ lượng với các láng giềng – cái này liệt kê bằng chứng ra chắc là cần cả chục công trình nghiên cứu.
Vì lẽ đó, xét về khía cạnh tâm lý, người Việt Nam rất khó tránh khỏi cảm giác ghét bỏ Trung Quốc – gần như một mối “cừu thù” nằm sâu trong tiềm thức. Chị Đỗ Ngọc Bích lại “khiêu khích” người đọc bằng một bài viết với nhiều lời lẽ đả kích như vậy, thì chưa cần biết chị nói đúng/ sai thế nào, có bị nguyền rủa, đe dọa cũng là dễ hiểu.
Cần nói rõ thêm, nguyên tắc trên chỉ áp dụng cho báo chí. Nếu chị Bích viết bài “Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” và đưa lên bích báo của lớp 10A trường PTTH ABC xã XYZ gì đó, hoặc viết xong cất vào nhật ký, thì chẳng sao. Nếu chị Bích có cả một công trình nghiên cứu đồ sộ, cỡ đề tài khoa học cấp Bộ, Nhà nước… chứng minh sự lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc, tổ tiên người Việt là người Trung Quốc… thì việc phản biện xin dành cho cơ quan chủ quản và các nhà khoa học. Có điều trường hợp này thì khác hẳn, bởi chị đang viết cho một tờ báo – trang mạng của BBC Việt ngữ.
Như vậy phải chăng là nhà báo không thể viết những điều “có thể sẽ ‘chà đạp’ lên các quan niệm vốn phổ biến”? Câu trả lời tùy quan niệm mỗi người. Cá nhân tôi cho rằng nếu viết, nhà báo phải cực kỳ thận trọng, khéo léo, cân nhắc từng từ ngữ, lập luận chặt chẽ và đầy đủ căn cứ. Cần khẳng định ngay là kể cả làm như vậy cũng không đảm bảo 100% độc giả sẽ “nhất trí cao” với người viết, và nói chung các chiến hữu làm báo chắc ai trong đời cũng ít nhất một lần bị chửi te tua.
Ngoài ra, có những chủ đề nhà báo tuyệt đối không nên động vào, nếu chủ đề đó có nguy cơ rơi vào một trong các trường hợp sau: kích động bạo lực, tội ác, kích động hằn thù dân tộc, cổ vũ cho sự phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào - kỳ thị chủng tộc, giới tính, tôn giáo, địa phương, v.v. Một người bạn (đồng tính) của tôi nói rằng, anh căm thù những tựa báo kiểu như “Giết bạn tình đồng tính”, “Hai người đồng tính giết người cướp của”, "Đêm thác loạn của gay", “Một kiếp bị giời đầy”, vân vân và vân vân.
Chị Bích có thể nói rằng mình không phải nhà báo, tuy nhiên bài viết của chị lại là dành cho một cơ quan truyền thông đại chúng, vì vậy nếu chị không nhận lỗi thì lỗi này sẽ được “kính chuyển” từ chị sang tòa soạn. Không thể trách độc giả đã mạt sát chị. Không thể nào tuyên bố: “Tôi không đọc, không chấp nhận, và không đáp lại những lời lẽ xúc phạm thô bỉ của những người phê phán, chỉ trích tôi”.
Cuối cùng, xin chia sẻ với các bạn làm báo và không làm báo một “bí kíp” – đúng hơn là lời khuyên tôi nhận được từ một nhân vật từng phỏng vấn: “Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, người viết phải viết sao để chính quyền (buộc) phải lắng nghe, nhân dân yêu mến, và kẻ thù thì không thể lợi dụng”.
Bài viết của chị Đỗ Ngọc Bích chắc chắn không được nhân dân yêu mến, kẻ thù của Việt Nam hoàn toàn có thể lợi dụng, còn chính quyền Việt Nam ngày nay cũng như chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 hẳn cũng chẳng vui gì.
Với một bài báo vi phạm hoàn toàn các nguyên tắc hay là tiêu chuẩn của báo chí như vậy, không hiểu tác giả viết làm chi?...
+++++
Bổ sung thêm một đoạn: Trong bài trả lời độc giả, chị Đỗ Ngọc Bích cho biết chị viết vì "muốn tìm ra nguyên cớ tại sao họ (các blogger trong nước và hải ngoại) ghét TQ và một số lãnh đạo VN đến thế, và cố gắng làm cho họ bớt thù hận, bình tĩnh, rộng lượng hơn một chút với một số bối cảnh ngoại giao Việt Trung hiện thời". Đến đây tôi xin trở lại ý trên: Nếu viết, nhà báo phải cực kỳ thận trọng, khéo léo, cân nhắc từng từ ngữ, lập luận chặt chẽ và đầy đủ căn cứ.
Theo ngu ý của tôi thì cũng với những ý đó của chị Bích, một nhà báo rất tài năng có thể cho ra một bài viết không đến nỗi hứng một trận mưa chửi. Người viết tay nghề vừa phải thì chẳng nên liều, như nhà em thì chạy cho mau, kiểu như "các cụ" ta dạy "đã yếu đừng ra gió" ấy mà!
Tuesday, 20 April 2010
1975 - đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh (kỳ 2)
“Thời cơ chiến lược”
Kế hoạch tháng 10 thận trọng song cũng rất đề cao yếu tố thời cơ. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch là bằng bất cứ cách nào khả dĩ, tạo ra cái mà QĐNDVN gọi là “thời cơ chiến lược”. Thời cơ chiến lược này có thể là một cuộc binh biến ở Sài Gòn, một cuộc đảo chính dẫn tới sự sụp đổ của chính quyền Miền Nam Việt Nam, hoặc một chiến thắng quân sự quyết định của các đơn vị quân chủ lực QĐNDVN. Kế hoạch lệnh cho tất cả các lực lượng cộng sản hành động ngay lập tức và quyết liệt, bất cứ khi nào thời cơ chiến lược xuất hiện, để khai thác thời cơ ấy bằng cách tổ chức tấn công toàn diện, nhằm giành thắng lợi hoàn toàn trong thời gian ngắn nhất có thể trước khi các nước “có xu hướng can thiệp”, chủ yếu ám chỉ Mỹ và Trung Quốc, kịp phản ứng.
Kế hoạch tấn công năm 1975 được chia thành ba giai đoạn và sẽ được tiếp nối vào năm 1976 bởi một cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” để “giải phóng” hoàn toàn miền Nam. Giai đoạn đầu của kế hoạch 1975 là một cuộc tấn công có giới hạn trong địa bàn tác chiến của Văn phòng Trung ương Cục Miền Nam, kéo dài từ tháng 12 năm 1974 tới tháng 2 năm 1975. Giai đoạn hai, trung tâm của Tổng Tiến công 1975, sẽ bắt đầu từ tháng 3 năm 1975 với cuộc tấn công tầm cỡ quân đoàn vào tiền đồn gần biên giới Đức Lập trên Đường 14 tại phần cực phía nam của Tây Nguyên. Trận Đức Lập sẽ được hỗ trợ bởi các hoạt động phụ có tính chất nghi binh ở miền Đông Nam Bộ (toàn khu vực từ Sài Gòn tới rìa Tây Nguyên), vùng hạ du ở miền Trung Việt Nam, và khu vực Trị Thiên (phía bắc vùng hoạt động của Quân đoàn I VNCH). Giai đoạn ba, từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, kết hợp các cuộc tấn công truy đuổi ở phần phía bắc của miền Trung, củng cố lực lượng QĐNDVN trên phần còn lại của miền Nam, và chuẩn bị “kế hoạch bất ngờ” khi cần. Các mục tiêu kế hoạch cho năm 1975 là tiêu hao một phần đáng kể tổng lực của VNCH; làm thất bại chương trình “bình định”; mở rộng mạng lưới hậu cần tiếp tế của QĐNDVN xuống Đường 14 tới tận Đồng bằng Sông Cửu Long; chặt đứt đường liên lạc của đối phương; phá hoại nền kinh tế miền Nam Việt Nam; và kích động chống đối chính trị nhằm vào chính quyền miền Nam. Tất cả các mục tiêu khác nhau này đều hướng tới mục đích tối hậu: làm hao mòn sức kháng cự của miền Nam Việt Nam và tạo điều kiện cho sự xuất hiện “thời cơ chiến lược”.
Mặc dù Bộ Chính trị phê chuẩn kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu trong phiên họp tháng 10, nhưng họ không hoàn toàn thỏa mãn và quyết định gặp lần nữa vào tháng 12 để xem lại các bước tiến triển và duyệt lại kế hoạch nếu thấy cần thiết. Mọi sự cố xảy ra lúc này đều có thể làm thay đổi đáng kể kế hoạch của QĐNDVN. Tại phiên họp toàn thể hồi tháng 10, Bộ Chính trị đã nhận định rằng căn cứ tình hình nội bộ nước Mỹ (hậu quả chính trị của vụ Nixon từ chức), Mỹ sẽ không can thiệp trở lại vào cuộc chiến tranh một cách đáng kể. Điều này dẹp bỏ mối lo ngại chính yếu của các nhà hoạch định chiến lược miền Bắc, cho phép họ tự do cân nhắc khả năng tấn công mạnh hơn. Thêm vào đó, trong một cuộc giao tranh kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 304 của QĐNDVN đã phá được căn cứ Thượng Đức ở khu vực miền núi phía tây Đà Nẵng, và đánh bại một loạt cuộc phản công quyết liệt của hai sư đoàn VNCH - Sư đoàn số 3 và Sư đoàn Kỵ binh bay. Chiến thắng Thượng Đức thuyết phục các nhà lãnh đạo QĐNDVN rằng quân đội của họ giờ đây đã có thể đánh bại ngay cả những đạo quân tinh nhuệ nhất mà VNCH có thể xây dựng được.
Tuy nhiên, hai yếu tố tối hậu trong sự hình thành và phát triển chiến dịch cuối cùng của QĐNDVN, là hai điều mà các nhà hoạch định chiến lược ở bất kỳ nơi đâu đều cần đến: thời (thời cơ) và nhân (con người). Yếu tố con người trong trường hợp này là một vị tướng đầy tham vọng, Trần Văn Trà. Ông là tư lệnh quân đội của Trung ương Cục Miền Nam, một vị trí mà ông đã nắm giữ rồi thôi, rồi lại tiếp tục, suốt từ năm 1964 đến lúc đó. Tướng Trà bị nhiều ý kiến chê trách là người đã chịu trách nhiệm hoạch định cuộc tấn công thảm họa Tết Mậu Thân 1968 vào Sài Gòn, và hậu quả là sự nghiệp của ông bị chững lại từ hồi đó. Giờ đây, ông đã nhìn thấy một cơ hội để chuộc lỗi.
Như chúng ta đã biết, điểm chính trong kế hoạch tổng thể của Bộ Tổng Tham mưu là yêu cầu toàn quân phải chuẩn bị để khai thác ngay lập tức bất kỳ thời cơ chiến lược nào nảy sinh. Khi Tướng Trà nhận lệnh từ Bộ Tổng Tham mưu yêu cầu Trung ương Cục Miền Nam phải dự kiến các tình huống cho một cuộc tấn công thần tốc vào Sài Gòn trong trường hợp xảy ra một “sự biến chính trị - quân sự” (đảo chính), ông biến cái “dự kiến” này thành nền tảng kế hoạch của toàn Trung ương Cục Miền Nam cho năm 1975. Tướng Trà đặt việc chiếm Sài Gòn trong năm 1975, không kéo dài sang năm 1976, là mục tiêu cao nhất trong kế hoạch của Trung ương Cục Miền Nam. Ông yêu cầu Hà Nội ngay lập tức gửi cho mình 3-4 sư đoàn để triển khai kế hoạch này, và ông thay đổi giai đoạn một – giai đoạn tấn công của Trung ương Cục Miền Nam theo lời kêu gọi của Bộ Tổng Tham mưu - thành một chiến dịch lớn nhằm vào việc tạo cơ sở cho cuộc tấn công vào Sài Gòn, bằng cách chiếm quyền kiểm soát toàn tỉnh Phước Long. Bộ Tổng Tham mưu không đáp lại yêu cầu này, Tướng Trà bèn quay về Hà Nội để thuyết phục từng cá nhân.
Trở về Hà Nội vào cuối tháng 11 năm 1974, Trần Văn Trà được biết rằng Bộ Tổng Tham mưu đã bác phần lớn kế hoạch tấn công Phước Long của ông và cấm việc Trung ương Cục Miền Nam sử dụng trước bất kỳ xe tăng và trọng pháo nào trong các cuộc tấn công có quy mô nhỏ. Giận dữ, Trần Văn Trà bắt đầu vận động các đồng chí cũ trong ban lãnh đạo Đảng, đặc biệt là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, ngõ hầu lật ngược quyết định của Bộ Tổng Tham mưu. Sau nhiều nỗ lực, may mắn cuối cùng đã mỉm cười với Tướng Trà. Suốt những cuộc tấn công đầu tiên, quân của Tướng Trà cả phá các đồn nhỏ của VNCH ở Bù Đăng và Bù Na trên Đường 14. Tổng Tư lệnh Quân đội Trung ương Cục Miền Nam báo cáo về Hà Nội vào ngày 20 tháng 12 rằng trong đợt phá hai đồn này, các lực lượng QĐNDVN đã thu được nguyên vẹn 4 khẩu lựu pháo 105 mm và 7.000 viên đạn pháo. Kho báu ngoài dự tính này làm các nhà lãnh đạo ở Hà Nội choáng váng. 7.000 viên đạn pháo là hơn nửa số đạn Bộ Tổng Tham mưu có kế hoạch sử dụng trên toàn quốc trong suốt chiến dịch 1975. Trà bây giờ đã có thể lập luận rằng ông có thể sử dụng kho báu này cho cuộc tấn công vào thủ phủ của tỉnh Phước Long theo kế hoạch ông đã lên mà thậm chí không cần động tới số dự trữ đạn dược hiện tại. Trên thực tế, QĐNDVN có thể kỳ vọng sẽ chiếm được thậm chí còn nhiều đạn được hơn ở các căn cứ lớn hơn. Đó là một lập luận mà các nhà lãnh đạo không thể bác được. Trà được phép triển khai kế hoạch ban đầu của ông.
Vào ngày 6 tháng 1, Sư đoàn số 3 và số 7 của QĐNDVN hoàn tất việc chiếm tỉnh Phước Long bằng cách chiếm thủ phủ của tỉnh và thu được thêm 10.000 viên đạn pháo. Miền Nam thậm chí không có nổi một nỗ lực động tác giả để lấy lại Phước Long, và tuy Mỹ đe dọa hành động bằng cách cho tàu sân bay Enterprise cất cánh về phía Miền Nam Việt Nam, nhưng Enterprise đã sớm quay lưng và mối đe dọa từ Mỹ tan thành mây khói.
Chiến thắng bất ngờ ở Phước Long cuối cùng đã thuyết phục các nhà lãnh đạo cộng sản rằng kế hoạch ban đầu của họ là quá thận trọng.
Đánh giá của Bộ Chính trị rằng Mỹ sẽ không tái can thiệp vào chiến cuộc đã tỏ ra là đúng đắn, những điểm yếu trong hàng phòng thủ của VNCH đã bị bộc lộ, và, cũng quan trọng chẳng kém, là cuối cùng đã có giải pháp cho vấn nạn thiếu đạn dược nghiêm trọng: đánh và chiếm các kho đạn dược của VNCH. Thêm vào đó, trận chiến ở Phước Long chứng tỏ cho Bộ Chính trị thấy rằng kế hoạch cho cuộc tấn công chính của QĐNDVN vào năm 1975, cuộc tấn công tháng ba vào Đức Lập bởi ba sư đoàn QĐNDVN, bây giờ đã lỗi thời và cần phải thay đổi. Kế hoạch được phê duyệt vào tháng 10 đặt ra hai mục tiêu chính cho trận Đức Lập: thứ nhất, đánh thông Đường 14 để sử dụng làm đường vận tải chiến lược cho cuộc tấn công cuối cùng vào Sài Gòn; thứ hai, kéo quân vào tiêu diệt một phần đáng kể binh lính VNCH khi họ cố gắng lấy lại các vùng lãnh thổ đã mất. Căn cứ vào các kinh nghiệm thu được từ Phước Long, bây giờ đã rõ ràng rằng nếu Đức Lập bị tấn công thì mục tiêu thứ hai sẽ không đạt được. Chiến thắng Phước Long chứng tỏ rằng VHCN vốn đã có ý định bỏ các khu vực ở xa và không quan trọng về mặt chiến lược như Đức Lập. Nếu VNCH không cố gắng chiếm lại Đức Lập, thì toàn bộ ba sư đoàn của QĐNDVN sẽ bị bỏ lại ở nơi không có ai để đánh, và như thế, yếu tố bất ngờ đã bị mất. Trần Văn Trà cho rằng chính ông là người đầu tiên đề nghị thay đổi mục tiêu tấn công sang Buôn Mê Thuột. Dù Tướng Trà có phải là người đầu tiên đưa ra ý tưởng đó hay không, thì các nhà lãnh đạo cộng sản cũng đã giang rộng vòng tay ôm lấy cơ hội chiếm Buôn Mê Thuột.
Buôn Mê Thuột là một thành phố có hơn 100.000 dân, “thủ phủ” của người dân tộc ở Tây Nguyên. Nơi đây có cơ quan đầu não và hậu cứ của Sư đoàn 23 VNCH, trong đó có khu căn cứ hậu cần Mai Hắc Đế đầy cám dỗ với những kho đạn pháo lớn. Thành phố nằm trên một giao điểm quan trọng sống còn, là nơi Đường 14 - chạy từ Kontum xuống phía nam tới cửa ngõ phía bắc của Sài Gòn - gặp Đường 21 - chạy theo hướng đông tới thành phố duyên hải Nha Trang. Nếu chiếm được Buôn Mê Thuột, các lực lượng QĐNDVN có thể di chuyển nhanh chóng bằng đường bộ lên phía bắc để chiếm Pleiku ở hậu phương, sang phía đông để cắt Việt Nam làm đôi, hoặc xuống phía nam để tấn công Sài Gòn. VNCH không thể để mất một vị trí chiến lược như vậy và sẽ bị buộc phải tổ chức phản công. Điều này càng đúng hơn bởi vì các gia đình của những quân nhân trong Sư đoàn 23 lại đều sinh sống ở Buôn Mê Thuột – quân đội VNCH chỉ đơn giản là không thể bỏ mặc vợ con mà tháo chạy, không chiến đấu. Trước đó 10 năm, thôn Bình Giã nhỏ xíu ở phía đông Sài Gòn đã được chọn làm mục tiêu của chiến dịch hợp đồng tác chiến liên trung đoàn đầu tiên của quân đội miền Bắc trong chiến tranh (tháng 12 năm 1964) chủ yếu vì lẽ, gia đình của nhiều lính thủy đánh bộ VNCH sinh sống ở Bình Giã. Các chỉ huy của QĐNDVN đã biết từ trước rằng VNCH sẽ buộc phải tấn công để chiếm lại thôn này, cứu người thân, nên họ đã giăng bẫy và tiêu diệt lực lượng viện binh của VNCH. Giờ đây, QĐNDVN lặp lại mẹo đó trên một quy mô rộng lớn hơn. Bởi vì Buôn Mê Thuột được bảo vệ rất mỏng (chỉ bởi Trung đoàn Bộ binh số 53 thiếu quân số, một tiểu đoàn xe tăng và pháo, và vài tiểu đoàn lính địa phương), một cuộc tấn công mạnh và bất ngờ vào thành phố sẽ nhanh chóng chế ngự những người bảo vệ nó. Một khi thành phố đã mất, các lực lượng QĐNDVN có thể triển khai phong tỏa và bẻ gãy các cuộc phản công của VNCH, trong khi đó viện binh của VNCH bị kẹt ở nơi đồng không mông quạnh, không kịp đào công sự bảo vệ.
CÒN NỮA
Đoan Trang dịch từ nguyên tác North Vietnam's Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil - “Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Tác giả Merle L. Pribbenow tốt nghiệp Đại học Washington năm 1968, chuyên ngành khoa học chính trị. Ông là nhân viên Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Đông Dương, có 27 năm kinh nghiệm nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có 5 năm làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tính đến ngày 29/4/1975. Kể từ khi về hưu (năm 1995), ông đã viết ba bài nghiên cứu lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và dịch một cuốn sách của Bộ Quốc phòng Việt Nam sang tiếng Anh, xuất bản tháng 5/2002 tại Mỹ.
Kế hoạch tháng 10 thận trọng song cũng rất đề cao yếu tố thời cơ. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch là bằng bất cứ cách nào khả dĩ, tạo ra cái mà QĐNDVN gọi là “thời cơ chiến lược”. Thời cơ chiến lược này có thể là một cuộc binh biến ở Sài Gòn, một cuộc đảo chính dẫn tới sự sụp đổ của chính quyền Miền Nam Việt Nam, hoặc một chiến thắng quân sự quyết định của các đơn vị quân chủ lực QĐNDVN. Kế hoạch lệnh cho tất cả các lực lượng cộng sản hành động ngay lập tức và quyết liệt, bất cứ khi nào thời cơ chiến lược xuất hiện, để khai thác thời cơ ấy bằng cách tổ chức tấn công toàn diện, nhằm giành thắng lợi hoàn toàn trong thời gian ngắn nhất có thể trước khi các nước “có xu hướng can thiệp”, chủ yếu ám chỉ Mỹ và Trung Quốc, kịp phản ứng.
Kế hoạch tấn công năm 1975 được chia thành ba giai đoạn và sẽ được tiếp nối vào năm 1976 bởi một cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” để “giải phóng” hoàn toàn miền Nam. Giai đoạn đầu của kế hoạch 1975 là một cuộc tấn công có giới hạn trong địa bàn tác chiến của Văn phòng Trung ương Cục Miền Nam, kéo dài từ tháng 12 năm 1974 tới tháng 2 năm 1975. Giai đoạn hai, trung tâm của Tổng Tiến công 1975, sẽ bắt đầu từ tháng 3 năm 1975 với cuộc tấn công tầm cỡ quân đoàn vào tiền đồn gần biên giới Đức Lập trên Đường 14 tại phần cực phía nam của Tây Nguyên. Trận Đức Lập sẽ được hỗ trợ bởi các hoạt động phụ có tính chất nghi binh ở miền Đông Nam Bộ (toàn khu vực từ Sài Gòn tới rìa Tây Nguyên), vùng hạ du ở miền Trung Việt Nam, và khu vực Trị Thiên (phía bắc vùng hoạt động của Quân đoàn I VNCH). Giai đoạn ba, từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, kết hợp các cuộc tấn công truy đuổi ở phần phía bắc của miền Trung, củng cố lực lượng QĐNDVN trên phần còn lại của miền Nam, và chuẩn bị “kế hoạch bất ngờ” khi cần. Các mục tiêu kế hoạch cho năm 1975 là tiêu hao một phần đáng kể tổng lực của VNCH; làm thất bại chương trình “bình định”; mở rộng mạng lưới hậu cần tiếp tế của QĐNDVN xuống Đường 14 tới tận Đồng bằng Sông Cửu Long; chặt đứt đường liên lạc của đối phương; phá hoại nền kinh tế miền Nam Việt Nam; và kích động chống đối chính trị nhằm vào chính quyền miền Nam. Tất cả các mục tiêu khác nhau này đều hướng tới mục đích tối hậu: làm hao mòn sức kháng cự của miền Nam Việt Nam và tạo điều kiện cho sự xuất hiện “thời cơ chiến lược”.
Mặc dù Bộ Chính trị phê chuẩn kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu trong phiên họp tháng 10, nhưng họ không hoàn toàn thỏa mãn và quyết định gặp lần nữa vào tháng 12 để xem lại các bước tiến triển và duyệt lại kế hoạch nếu thấy cần thiết. Mọi sự cố xảy ra lúc này đều có thể làm thay đổi đáng kể kế hoạch của QĐNDVN. Tại phiên họp toàn thể hồi tháng 10, Bộ Chính trị đã nhận định rằng căn cứ tình hình nội bộ nước Mỹ (hậu quả chính trị của vụ Nixon từ chức), Mỹ sẽ không can thiệp trở lại vào cuộc chiến tranh một cách đáng kể. Điều này dẹp bỏ mối lo ngại chính yếu của các nhà hoạch định chiến lược miền Bắc, cho phép họ tự do cân nhắc khả năng tấn công mạnh hơn. Thêm vào đó, trong một cuộc giao tranh kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 304 của QĐNDVN đã phá được căn cứ Thượng Đức ở khu vực miền núi phía tây Đà Nẵng, và đánh bại một loạt cuộc phản công quyết liệt của hai sư đoàn VNCH - Sư đoàn số 3 và Sư đoàn Kỵ binh bay. Chiến thắng Thượng Đức thuyết phục các nhà lãnh đạo QĐNDVN rằng quân đội của họ giờ đây đã có thể đánh bại ngay cả những đạo quân tinh nhuệ nhất mà VNCH có thể xây dựng được.
Tuy nhiên, hai yếu tố tối hậu trong sự hình thành và phát triển chiến dịch cuối cùng của QĐNDVN, là hai điều mà các nhà hoạch định chiến lược ở bất kỳ nơi đâu đều cần đến: thời (thời cơ) và nhân (con người). Yếu tố con người trong trường hợp này là một vị tướng đầy tham vọng, Trần Văn Trà. Ông là tư lệnh quân đội của Trung ương Cục Miền Nam, một vị trí mà ông đã nắm giữ rồi thôi, rồi lại tiếp tục, suốt từ năm 1964 đến lúc đó. Tướng Trà bị nhiều ý kiến chê trách là người đã chịu trách nhiệm hoạch định cuộc tấn công thảm họa Tết Mậu Thân 1968 vào Sài Gòn, và hậu quả là sự nghiệp của ông bị chững lại từ hồi đó. Giờ đây, ông đã nhìn thấy một cơ hội để chuộc lỗi.
Như chúng ta đã biết, điểm chính trong kế hoạch tổng thể của Bộ Tổng Tham mưu là yêu cầu toàn quân phải chuẩn bị để khai thác ngay lập tức bất kỳ thời cơ chiến lược nào nảy sinh. Khi Tướng Trà nhận lệnh từ Bộ Tổng Tham mưu yêu cầu Trung ương Cục Miền Nam phải dự kiến các tình huống cho một cuộc tấn công thần tốc vào Sài Gòn trong trường hợp xảy ra một “sự biến chính trị - quân sự” (đảo chính), ông biến cái “dự kiến” này thành nền tảng kế hoạch của toàn Trung ương Cục Miền Nam cho năm 1975. Tướng Trà đặt việc chiếm Sài Gòn trong năm 1975, không kéo dài sang năm 1976, là mục tiêu cao nhất trong kế hoạch của Trung ương Cục Miền Nam. Ông yêu cầu Hà Nội ngay lập tức gửi cho mình 3-4 sư đoàn để triển khai kế hoạch này, và ông thay đổi giai đoạn một – giai đoạn tấn công của Trung ương Cục Miền Nam theo lời kêu gọi của Bộ Tổng Tham mưu - thành một chiến dịch lớn nhằm vào việc tạo cơ sở cho cuộc tấn công vào Sài Gòn, bằng cách chiếm quyền kiểm soát toàn tỉnh Phước Long. Bộ Tổng Tham mưu không đáp lại yêu cầu này, Tướng Trà bèn quay về Hà Nội để thuyết phục từng cá nhân.
Trở về Hà Nội vào cuối tháng 11 năm 1974, Trần Văn Trà được biết rằng Bộ Tổng Tham mưu đã bác phần lớn kế hoạch tấn công Phước Long của ông và cấm việc Trung ương Cục Miền Nam sử dụng trước bất kỳ xe tăng và trọng pháo nào trong các cuộc tấn công có quy mô nhỏ. Giận dữ, Trần Văn Trà bắt đầu vận động các đồng chí cũ trong ban lãnh đạo Đảng, đặc biệt là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, ngõ hầu lật ngược quyết định của Bộ Tổng Tham mưu. Sau nhiều nỗ lực, may mắn cuối cùng đã mỉm cười với Tướng Trà. Suốt những cuộc tấn công đầu tiên, quân của Tướng Trà cả phá các đồn nhỏ của VNCH ở Bù Đăng và Bù Na trên Đường 14. Tổng Tư lệnh Quân đội Trung ương Cục Miền Nam báo cáo về Hà Nội vào ngày 20 tháng 12 rằng trong đợt phá hai đồn này, các lực lượng QĐNDVN đã thu được nguyên vẹn 4 khẩu lựu pháo 105 mm và 7.000 viên đạn pháo. Kho báu ngoài dự tính này làm các nhà lãnh đạo ở Hà Nội choáng váng. 7.000 viên đạn pháo là hơn nửa số đạn Bộ Tổng Tham mưu có kế hoạch sử dụng trên toàn quốc trong suốt chiến dịch 1975. Trà bây giờ đã có thể lập luận rằng ông có thể sử dụng kho báu này cho cuộc tấn công vào thủ phủ của tỉnh Phước Long theo kế hoạch ông đã lên mà thậm chí không cần động tới số dự trữ đạn dược hiện tại. Trên thực tế, QĐNDVN có thể kỳ vọng sẽ chiếm được thậm chí còn nhiều đạn được hơn ở các căn cứ lớn hơn. Đó là một lập luận mà các nhà lãnh đạo không thể bác được. Trà được phép triển khai kế hoạch ban đầu của ông.
Vào ngày 6 tháng 1, Sư đoàn số 3 và số 7 của QĐNDVN hoàn tất việc chiếm tỉnh Phước Long bằng cách chiếm thủ phủ của tỉnh và thu được thêm 10.000 viên đạn pháo. Miền Nam thậm chí không có nổi một nỗ lực động tác giả để lấy lại Phước Long, và tuy Mỹ đe dọa hành động bằng cách cho tàu sân bay Enterprise cất cánh về phía Miền Nam Việt Nam, nhưng Enterprise đã sớm quay lưng và mối đe dọa từ Mỹ tan thành mây khói.
Chiến thắng bất ngờ ở Phước Long cuối cùng đã thuyết phục các nhà lãnh đạo cộng sản rằng kế hoạch ban đầu của họ là quá thận trọng.
Đánh giá của Bộ Chính trị rằng Mỹ sẽ không tái can thiệp vào chiến cuộc đã tỏ ra là đúng đắn, những điểm yếu trong hàng phòng thủ của VNCH đã bị bộc lộ, và, cũng quan trọng chẳng kém, là cuối cùng đã có giải pháp cho vấn nạn thiếu đạn dược nghiêm trọng: đánh và chiếm các kho đạn dược của VNCH. Thêm vào đó, trận chiến ở Phước Long chứng tỏ cho Bộ Chính trị thấy rằng kế hoạch cho cuộc tấn công chính của QĐNDVN vào năm 1975, cuộc tấn công tháng ba vào Đức Lập bởi ba sư đoàn QĐNDVN, bây giờ đã lỗi thời và cần phải thay đổi. Kế hoạch được phê duyệt vào tháng 10 đặt ra hai mục tiêu chính cho trận Đức Lập: thứ nhất, đánh thông Đường 14 để sử dụng làm đường vận tải chiến lược cho cuộc tấn công cuối cùng vào Sài Gòn; thứ hai, kéo quân vào tiêu diệt một phần đáng kể binh lính VNCH khi họ cố gắng lấy lại các vùng lãnh thổ đã mất. Căn cứ vào các kinh nghiệm thu được từ Phước Long, bây giờ đã rõ ràng rằng nếu Đức Lập bị tấn công thì mục tiêu thứ hai sẽ không đạt được. Chiến thắng Phước Long chứng tỏ rằng VHCN vốn đã có ý định bỏ các khu vực ở xa và không quan trọng về mặt chiến lược như Đức Lập. Nếu VNCH không cố gắng chiếm lại Đức Lập, thì toàn bộ ba sư đoàn của QĐNDVN sẽ bị bỏ lại ở nơi không có ai để đánh, và như thế, yếu tố bất ngờ đã bị mất. Trần Văn Trà cho rằng chính ông là người đầu tiên đề nghị thay đổi mục tiêu tấn công sang Buôn Mê Thuột. Dù Tướng Trà có phải là người đầu tiên đưa ra ý tưởng đó hay không, thì các nhà lãnh đạo cộng sản cũng đã giang rộng vòng tay ôm lấy cơ hội chiếm Buôn Mê Thuột.
Buôn Mê Thuột là một thành phố có hơn 100.000 dân, “thủ phủ” của người dân tộc ở Tây Nguyên. Nơi đây có cơ quan đầu não và hậu cứ của Sư đoàn 23 VNCH, trong đó có khu căn cứ hậu cần Mai Hắc Đế đầy cám dỗ với những kho đạn pháo lớn. Thành phố nằm trên một giao điểm quan trọng sống còn, là nơi Đường 14 - chạy từ Kontum xuống phía nam tới cửa ngõ phía bắc của Sài Gòn - gặp Đường 21 - chạy theo hướng đông tới thành phố duyên hải Nha Trang. Nếu chiếm được Buôn Mê Thuột, các lực lượng QĐNDVN có thể di chuyển nhanh chóng bằng đường bộ lên phía bắc để chiếm Pleiku ở hậu phương, sang phía đông để cắt Việt Nam làm đôi, hoặc xuống phía nam để tấn công Sài Gòn. VNCH không thể để mất một vị trí chiến lược như vậy và sẽ bị buộc phải tổ chức phản công. Điều này càng đúng hơn bởi vì các gia đình của những quân nhân trong Sư đoàn 23 lại đều sinh sống ở Buôn Mê Thuột – quân đội VNCH chỉ đơn giản là không thể bỏ mặc vợ con mà tháo chạy, không chiến đấu. Trước đó 10 năm, thôn Bình Giã nhỏ xíu ở phía đông Sài Gòn đã được chọn làm mục tiêu của chiến dịch hợp đồng tác chiến liên trung đoàn đầu tiên của quân đội miền Bắc trong chiến tranh (tháng 12 năm 1964) chủ yếu vì lẽ, gia đình của nhiều lính thủy đánh bộ VNCH sinh sống ở Bình Giã. Các chỉ huy của QĐNDVN đã biết từ trước rằng VNCH sẽ buộc phải tấn công để chiếm lại thôn này, cứu người thân, nên họ đã giăng bẫy và tiêu diệt lực lượng viện binh của VNCH. Giờ đây, QĐNDVN lặp lại mẹo đó trên một quy mô rộng lớn hơn. Bởi vì Buôn Mê Thuột được bảo vệ rất mỏng (chỉ bởi Trung đoàn Bộ binh số 53 thiếu quân số, một tiểu đoàn xe tăng và pháo, và vài tiểu đoàn lính địa phương), một cuộc tấn công mạnh và bất ngờ vào thành phố sẽ nhanh chóng chế ngự những người bảo vệ nó. Một khi thành phố đã mất, các lực lượng QĐNDVN có thể triển khai phong tỏa và bẻ gãy các cuộc phản công của VNCH, trong khi đó viện binh của VNCH bị kẹt ở nơi đồng không mông quạnh, không kịp đào công sự bảo vệ.
CÒN NỮA
Đoan Trang dịch từ nguyên tác North Vietnam's Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil - “Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Tác giả Merle L. Pribbenow tốt nghiệp Đại học Washington năm 1968, chuyên ngành khoa học chính trị. Ông là nhân viên Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Đông Dương, có 27 năm kinh nghiệm nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có 5 năm làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tính đến ngày 29/4/1975. Kể từ khi về hưu (năm 1995), ông đã viết ba bài nghiên cứu lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và dịch một cuốn sách của Bộ Quốc phòng Việt Nam sang tiếng Anh, xuất bản tháng 5/2002 tại Mỹ.
Saturday, 17 April 2010
1975 - đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh (kỳ 1)
Gần một phần tư thế kỷ trước (*), một đất nước thuộc thế giới thứ ba đã giành thắng lợi trong trận đánh cuối cùng của một cuộc chiến tranh gian khổ kéo dài, nhờ áp dụng một chiến lược tấn công hiện đại, dứt khoát và bất ngờ. Ngày nay, bài học rút ra từ chiến thắng này vẫn thật đáng nhớ, khi chúng ta đang sống trong một thời đại có khuynh hướng cậy vào công nghệ hơn là vào tư duy chiến lược và mặc định rằng các kỹ năng chiến lược của đối phương cũng lạc hậu như nền kinh tế, cấu trúc xã hội và nền tảng công nghệ của họ.
Vào ngày mồng 4 tháng 3 năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam (miền Bắc) tiến hành chiến dịch cuối cùng trong cuộc chiến 30 năm của họ bằng một loạt đợt tấn công vào các vị trí của miền Nam ở đèo Măng Giang, Tây Nguyên. Chiến dịch của họ - kết thúc thắng lợi hoàn toàn không đầy hai tháng sau đó - không giống như bất kỳ trận đánh nào trong lịch sử kéo dài của cuộc chiến tranh.
Khác biệt là ở chỗ, lần đầu tiên, nghệ thuật làm chiến dịch của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) không đặt cơ sở vào ý chí sẵn sàng hy sinh nhiều hơn đối thủ. Ngoài ra, họ cũng chỉ nhắc một cách chiếu lệ tới học thuyết cũ về một cuộc toàn dân nổi dậy. Thay vì tất cả những cái đó, chiến dịch của QĐNDVN dựa vào các kỹ năng đánh lừa, nghi binh (vu hồi), gây bất ngờ, tiếp cận gián tiếp, đánh lần lượt từng cụm căn cứ - nói tóm lại, một chiến dịch rất trí tuệ. QĐNDVN cuối cùng đã vươn tới một chiến dịch xứng tầm với một lực lượng quân đội chuyên nghiệp, hiện đại, thứ mà các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã nỗ lực rất lâu để xây dựng.
Nhiều sử gia vẫn cho rằng trong bối cảnh viện trợ quân sự của Mỹ cho miền Nam giảm toàn diện sau năm 1973, bất kỳ một cuộc tấn công lớn nào của cộng sản cũng sẽ thắng lợi. Tuy vậy, lực lượng đương đầu với QĐNDVN hồi đầu năm 1975 - Quân đội Việt Nam Cộng hòa (QĐVNCH) - không hề là hổ giấy. Khi QĐVNCH gặp phải những vấn đề nghiêm trọng về hậu cần và tinh thần chiến đấu, phần lớn lãnh đạo của họ kém năng lực, thì những người lính trong QĐVNCH, vốn dày dạn trận mạc, lại vẫn duy trì được một lượng đạn dược và trang thiết bị khổng lồ (như đã thể hiện qua số lượng cực lớn các phương tiện chiến tranh mà quân Bắc Việt thu được khi chiến tranh kết thúc). Cứ cho rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam là không thể tránh khỏi, nhưng kết cục có lẽ đã đẫm máu và kéo dài hơn nhiều nếu những người cộng sản chọn một kế hoạch tấn công khác, theo kiểu truyền thống hơn (**). Đòn tiêu diệt mạnh nhất của toàn bộ chiến dịch tổng tiến công thực ra chính là đòn tâm lý choáng váng mà chiến lược tài ba và đầy bất ngờ của họ đã nện vào tổng tư lệnh Việt Nam Cộng hòa.
Bài viết sau đây, chủ yếu rút ra từ các nguồn tài liệu của chính quyền Việt Nam cộng sản, là câu chuyện về sự hình thành và phát triển chiến dịch Tổng Tiến công của QĐNDVN. Thật không may là những người cộng sản Việt Nam chưa mở kho tư liệu về quân sự của họ để cho phép kiểm lại một cách độc lập các ghi chép thời đó về chiến dịch 1975, cũng như chưa cho phép các sử gia Tây phương thực hiện phỏng vấn công khai, thẳng thắn về các bên tham gia trong những sự kiện này – điều cần thiết để có thể viết sử một cách công bằng và thật sự đầy đủ. Do đó, câu chuyện này buộc phải dựa chủ yếu vào lịch sử và ký ức được chính quyền Việt Nam cộng sản ghi nhận (mặc dù một trong những nguồn chính yếu là hồi ký của Trung tướng Trần Văn Trà đã không chỉ bị chính thức phủ nhận mà còn bị tịch thu và cấm ngay sau khi xuất bản, bởi trong hồi ký đó, ông Trà đã phê phán gay gắt các sĩ quan miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là Tổng Tham mưu trưởng QĐND, Tướng Văn Tiến Dũng). Giới nghiên cứu đang cố gắng lọc bỏ những yếu tố tuyên truyền và tự mãn hàm chứa trong câu chuyện của những người cộng sản, cũng như để kiểm lại độ xác thực của những câu chuyện này, đối chiếu với các tài liệu lịch sử thành văn hiện có. Trong khi chờ đợi họ, chúng ta phải thừa nhận rằng một số quan điểm trong tư liệu của miền Bắc Việt Nam cần được tiếp nhận một cách tỉnh táo.
Kế hoạch ban đầu
Những hạt mầm của chiến dịch Tổng Tiến công 1975 của miền Bắc Việt Nam đã được gieo từ hai hội nghị quân sự cấp cao tổ chức tại Hà Nội vào tháng ba và tháng tư năm 1974 để đánh giá tình hình chiến sự. Hai hội nghị này đi đến kết luận rằng QĐNDVN đã giành lại được thế chủ động ở miền Nam, lần đầu tiên kể từ chiến dịch Quảng Trị 1972. Sau Hiệp định ngừng bắn ký tại Paris tháng giêng năm 1973, QĐNDVN đã mở rộng đáng kể tuyến đường huyết mạch chuyên chở hậu cần của họ tới miền Nam - Đường Hồ Chí Minh. Do con đường không còn chịu sự tấn công của không quân Mỹ, miền Bắc Việt Nam nay đã có thể vận chuyển khối lượng khổng lồ trang thiết bị và hàng tiếp tế vào Nam: chỉ riêng trong năm 1973, đã có 80.000 tấn hàng quân sự được cung cấp, trong đó có 27.000 tấn vũ khí, 6.000 tấn chế phẩm xăng dầu, và 40.000 tấn gạo. 100.000 quân nhân mới của QĐNDVN đã hành quân dọc Đường Hồ Chí Minh vào Nam trong suốt năm 1973, và 80.000 người khác lên đường Nam tiến trong nửa đầu năm 1974. Sức mạnh quân đội của QĐNDVN ở chiến trường miền Nam, vốn bị mất đi một phần trong chiến dịch Quảng Trị 1972, giờ đây ở mức hùng hậu nhất trong lịch sử cuộc chiến tranh: 400.000 lính chính quy. QĐNDVN đã có thể thấy ánh sáng cuối đường hầm. Vấn đề họ đang đối diện là làm thế nào để đi tới đoạn cuối đó.
Sau hai hội nghị tháng ba và tháng tư, vào tháng năm, Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội hoàn thành dự thảo, “Đề cương sơ bộ về một kế hoạch giành chiến thắng trong chiến tranh ở miền Nam”. Nghiên cứu này được gửi tới Tổng Tư lệnh của QĐNDVN, đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp, để ông duyệt. Ngày 18-1-1974, sau khi đánh giá cẩn thận đề cương này, Tướng Giáp gọi người phó của ông, Tướng Hoàng Văn Thái, và ra lệnh chuẩn bị cho một kế hoạch chiến dịch chính thức nhằm vào việc giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam muộn nhất trong năm 1976. Quan điểm chung của ông Giáp là một cuộc tấn công hai giai đoạn, bao gồm một đợt công kích lớn của quân chủ lực vào Tây Nguyên, sau đó là một cuộc tấn công dốc toàn lực nhằm vào lực lượng bảo vệ Sài Gòn. (Nhiều sử gia – những người khẳng định Tướng Giáp ít hoặc không đóng vai trò nào trong Tổng Tiến công 1975 - cho rằng tới lúc đó ông đã bị hạn chế đến mức chỉ còn vị thế bung xung, do sức khỏe kém và do thất bại của ông trong hai chiến dịch 1968 và 1972. Tuy nhiên, những tư liệu của chính quyền cộng sản lại mô tả Giáp với tư cách một người tham gia rất nhiều vào việc lập kế hoạch và chỉ huy tổng thể chiến dịch từ lúc hình thành ý tưởng cho tới thắng lợi cuối cùng). Ngày 26-8-1974, sau khi xem lại một số bản dự thảo trước đó, Bộ Tổng Tham mưu hoàn tất “Kế hoạch chiến lược 1975-76" và ban hành trong ban lãnh đạo cấp cao của Đảng cũng như chuyển cho các chỉ huy quân sự cấp cao để xin ý kiến. Kế hoạch hoàn chỉnh cuối cùng được trình các lãnh đạo Đảng duyệt tại một phiên họp kéo dài của Bộ Chính trị vào tháng 10 năm 1974.
Mặc dù QĐNDVN biết họ đã giành được thế chủ động chiến lược ở miền Nam Việt Nam, kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu vẫn khá thận trọng, bởi họ vẫn đang phải đương đầu với một số vấn đề nghiêm trọng. Các nỗ lực của cộng sản nhằm xây dựng lại căn cứ du kích ở vùng nông thôn Việt Nam đã thất bại trên diện rộng, chỉ đạt 30% trong tổng số mục tiêu sức mạnh quân sự trong kế hoạch 1973-74 của các lực lượng vũ trang địa phương ở miền Nam. Thêm vào đó, cơ sở chính trị ở nội đô cũng rất yếu, và quan trọng nhất là, các lực lượng chính quy của QĐNDVN đối diện với tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng về vũ khí hạng nặng và đạn dược. Thêm nữa, mặc dù giới lãnh đạo của Bắc Việt tin rằng họ có một cửa cơ hội vài năm có một để giành chiến thắng trước khi Mỹ phục hồi trở lại sau những bê bối chính trị trong nước, QĐNDVN tin rằng họ vẫn phải cảnh giác với sự can thiệp có thể có từ nước ngoài. Trong các chỉ thị ban đầu của Tướng Giáp, có yêu cầu các lực lượng quân đội của miền Bắc phải chuẩn bị cho khả năng cuộc tổng tiến công có thể khiêu khích Mỹ ném bom trở lại vào miền Bắc hoặc thậm chí đổ bộ vào vịnh Bắc Bộ. Bộ Tổng Tham mưu quyết định rằng, xét các vấn đề này, QĐNDVN không thể đi tới một chiến dịch “tổng tấn công và nổi dậy toàn quốc” kiểu Tết Mậu Thân 1968, huy động lượng lớn du kích ở nông thôn và thành thị (mà họ không hề có), cũng như không có các nguồn lực để tiến hành một cuộc tấn công ồ ạt, trên toàn tuyến, theo kiểu truyền thống như chiến dịch Quảng Trị 1972.
Sự thiếu hụt về tăng thiết giáp và trọng pháo - điều kiện cần để tấn công vào các căn cứ ở cấp sư đoàn và trung đoàn vốn được trang bị rất đầy đủ của VNCH - đè nặng lên tâm trí những nhà hoạch định chiến lược của Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN, những người đã lập nên bản kế hoạch để trình Bộ Chính trị vào tháng 10 năm 1974. Sau này, người ta chủ yếu tìm hiểu xem tình trạng thiếu đạn trong quân đội VNCH tác động như thế nào đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam, mà không biết rằng chính QĐNDVN mới chịu thiếu hụt nghiêm trọng. Viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt ở danh mục “vũ khí tấn công” (xe tăng và pháo), đã giảm đáng kể từ sau Hiệp định Paris 1973. Những thiệt hại lớn của QĐNDVN trong chiến dịch Quảng Trị 1972 càng làm trầm trọng thêm vấn nạn thiếu hụt do sự suy giảm viện trợ này gây ra. Ngoài ra, phần lớn xe tăng và pháo của QĐNDVN ở trong tình trạng rất tồi tệ, phụ tùng thì thiếu. Nhiều đơn vị pháo binh của QĐNDVN, nhất là ở miền Nam, vẫn chỉ được trang bị súng cối hạng nhẹ, súng trường không giật (DKZ), hoặc ống phóng hỏa tiễn vác vai (B40).
Ở địa bàn hoạt động của Văn phòng Trung ương cục Miền Nam, tức là nửa phía nam của đất nước, bảy sư đoàn bộ binh (số 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9) và khung quân đoàn 4 chỉ được yểm trợ bởi năm tiểu đoàn pháo (hai trong số đó có trang bị pháo lấy được của Mỹ nhưng còn rất ít đạn) và ba tiểu đoàn tăng thiết giáp thiếu bộ đội. Khi Quân đoàn 2 của QĐNDVN chiếm Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975, họ cũng chỉ có tổng cộng 89 xe tăng và thiết giáp chở quân, 87 cỗ pháo.
Tuy nhiên, vấn đề gay go nhất là nạn thiếu nghiêm trọng đạn cho xe tăng và trọng pháo (tức là pháo dã chiến và cối 85mm trở lên). Hồi chiến dịch Quảng Trị 1972, quân đội miền Bắc đã bắn hơn 220.000 viên đạn xe tăng và trọng pháo, trong đó 150.000 viên đã được sử dụng chỉ riêng tại mặt trận Quảng Trị. Cho đến năm 1974, toàn bộ kho đạn pháo và đạn tăng của QĐNDVN, bao gồm tất cả đạn dược của cả các đơn vị chiến đấu ở chiến trường lẫn của các kho dự trữ chiến lược, tổng cộng chỉ được 100.000 viên. Tình hình đạn dược nghiêm trọng tới mức các chỉ huy pháo binh phải thay pháo lớn ở một số đơn vị bằng các khẩu pháo đã lỗi thời 76,2mm và 57mm, lấy từ kho ra.
Vì những vấn đề này, Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN ban hành sắc lệnh rằng tất cả các vũ khí hạng nặng và đạn dược còn lại phải được sử dụng thật tiết kiệm, để dành cho một đòn quyết định, chỉ tiến hành khi trận cuối cùng diễn ra. Kế hoạch 1975-76 chỉ cho phép dùng hơn 10% kho đạn tăng-pháo còn lại của QĐNDVN trong cả chiến dịch 1975. 45% được phân phối cho chiến dịch 1976, phần còn lại để dự trữ.
CÒN NỮA
Đoan Trang dịch từ nguyên tác North Vietnam's Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil - “Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Tác giả Merle L. Pribbenow tốt nghiệp Đại học Washington năm 1968, chuyên ngành khoa học chính trị. Ông là nhân viên Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Đông Dương, có 27 năm kinh nghiệm nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có 5 năm làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tính đến ngày 29/4/1975. Kể từ khi về hưu (năm 1995), ông đã viết ba bài nghiên cứu lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và dịch một cuốn sách của Bộ Quốc phòng Việt Nam sang tiếng Anh, xuất bản tháng 5/2002 tại Mỹ.
(*) Bài viết này được thực hiện vào năm 1999.
(**) Nguyên văn: conventional attack, nghĩa là một cuộc tấn công mang tính chất của chiến tranh quy ước. Chiến tranh quy ước là chiến tranh giữa các binh đoàn chủ lực, hay tác chiến binh chủng hợp thành.
Vào ngày mồng 4 tháng 3 năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam (miền Bắc) tiến hành chiến dịch cuối cùng trong cuộc chiến 30 năm của họ bằng một loạt đợt tấn công vào các vị trí của miền Nam ở đèo Măng Giang, Tây Nguyên. Chiến dịch của họ - kết thúc thắng lợi hoàn toàn không đầy hai tháng sau đó - không giống như bất kỳ trận đánh nào trong lịch sử kéo dài của cuộc chiến tranh.
Khác biệt là ở chỗ, lần đầu tiên, nghệ thuật làm chiến dịch của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) không đặt cơ sở vào ý chí sẵn sàng hy sinh nhiều hơn đối thủ. Ngoài ra, họ cũng chỉ nhắc một cách chiếu lệ tới học thuyết cũ về một cuộc toàn dân nổi dậy. Thay vì tất cả những cái đó, chiến dịch của QĐNDVN dựa vào các kỹ năng đánh lừa, nghi binh (vu hồi), gây bất ngờ, tiếp cận gián tiếp, đánh lần lượt từng cụm căn cứ - nói tóm lại, một chiến dịch rất trí tuệ. QĐNDVN cuối cùng đã vươn tới một chiến dịch xứng tầm với một lực lượng quân đội chuyên nghiệp, hiện đại, thứ mà các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã nỗ lực rất lâu để xây dựng.
Nhiều sử gia vẫn cho rằng trong bối cảnh viện trợ quân sự của Mỹ cho miền Nam giảm toàn diện sau năm 1973, bất kỳ một cuộc tấn công lớn nào của cộng sản cũng sẽ thắng lợi. Tuy vậy, lực lượng đương đầu với QĐNDVN hồi đầu năm 1975 - Quân đội Việt Nam Cộng hòa (QĐVNCH) - không hề là hổ giấy. Khi QĐVNCH gặp phải những vấn đề nghiêm trọng về hậu cần và tinh thần chiến đấu, phần lớn lãnh đạo của họ kém năng lực, thì những người lính trong QĐVNCH, vốn dày dạn trận mạc, lại vẫn duy trì được một lượng đạn dược và trang thiết bị khổng lồ (như đã thể hiện qua số lượng cực lớn các phương tiện chiến tranh mà quân Bắc Việt thu được khi chiến tranh kết thúc). Cứ cho rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam là không thể tránh khỏi, nhưng kết cục có lẽ đã đẫm máu và kéo dài hơn nhiều nếu những người cộng sản chọn một kế hoạch tấn công khác, theo kiểu truyền thống hơn (**). Đòn tiêu diệt mạnh nhất của toàn bộ chiến dịch tổng tiến công thực ra chính là đòn tâm lý choáng váng mà chiến lược tài ba và đầy bất ngờ của họ đã nện vào tổng tư lệnh Việt Nam Cộng hòa.
Bài viết sau đây, chủ yếu rút ra từ các nguồn tài liệu của chính quyền Việt Nam cộng sản, là câu chuyện về sự hình thành và phát triển chiến dịch Tổng Tiến công của QĐNDVN. Thật không may là những người cộng sản Việt Nam chưa mở kho tư liệu về quân sự của họ để cho phép kiểm lại một cách độc lập các ghi chép thời đó về chiến dịch 1975, cũng như chưa cho phép các sử gia Tây phương thực hiện phỏng vấn công khai, thẳng thắn về các bên tham gia trong những sự kiện này – điều cần thiết để có thể viết sử một cách công bằng và thật sự đầy đủ. Do đó, câu chuyện này buộc phải dựa chủ yếu vào lịch sử và ký ức được chính quyền Việt Nam cộng sản ghi nhận (mặc dù một trong những nguồn chính yếu là hồi ký của Trung tướng Trần Văn Trà đã không chỉ bị chính thức phủ nhận mà còn bị tịch thu và cấm ngay sau khi xuất bản, bởi trong hồi ký đó, ông Trà đã phê phán gay gắt các sĩ quan miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là Tổng Tham mưu trưởng QĐND, Tướng Văn Tiến Dũng). Giới nghiên cứu đang cố gắng lọc bỏ những yếu tố tuyên truyền và tự mãn hàm chứa trong câu chuyện của những người cộng sản, cũng như để kiểm lại độ xác thực của những câu chuyện này, đối chiếu với các tài liệu lịch sử thành văn hiện có. Trong khi chờ đợi họ, chúng ta phải thừa nhận rằng một số quan điểm trong tư liệu của miền Bắc Việt Nam cần được tiếp nhận một cách tỉnh táo.
Kế hoạch ban đầu
Những hạt mầm của chiến dịch Tổng Tiến công 1975 của miền Bắc Việt Nam đã được gieo từ hai hội nghị quân sự cấp cao tổ chức tại Hà Nội vào tháng ba và tháng tư năm 1974 để đánh giá tình hình chiến sự. Hai hội nghị này đi đến kết luận rằng QĐNDVN đã giành lại được thế chủ động ở miền Nam, lần đầu tiên kể từ chiến dịch Quảng Trị 1972. Sau Hiệp định ngừng bắn ký tại Paris tháng giêng năm 1973, QĐNDVN đã mở rộng đáng kể tuyến đường huyết mạch chuyên chở hậu cần của họ tới miền Nam - Đường Hồ Chí Minh. Do con đường không còn chịu sự tấn công của không quân Mỹ, miền Bắc Việt Nam nay đã có thể vận chuyển khối lượng khổng lồ trang thiết bị và hàng tiếp tế vào Nam: chỉ riêng trong năm 1973, đã có 80.000 tấn hàng quân sự được cung cấp, trong đó có 27.000 tấn vũ khí, 6.000 tấn chế phẩm xăng dầu, và 40.000 tấn gạo. 100.000 quân nhân mới của QĐNDVN đã hành quân dọc Đường Hồ Chí Minh vào Nam trong suốt năm 1973, và 80.000 người khác lên đường Nam tiến trong nửa đầu năm 1974. Sức mạnh quân đội của QĐNDVN ở chiến trường miền Nam, vốn bị mất đi một phần trong chiến dịch Quảng Trị 1972, giờ đây ở mức hùng hậu nhất trong lịch sử cuộc chiến tranh: 400.000 lính chính quy. QĐNDVN đã có thể thấy ánh sáng cuối đường hầm. Vấn đề họ đang đối diện là làm thế nào để đi tới đoạn cuối đó.
Sau hai hội nghị tháng ba và tháng tư, vào tháng năm, Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội hoàn thành dự thảo, “Đề cương sơ bộ về một kế hoạch giành chiến thắng trong chiến tranh ở miền Nam”. Nghiên cứu này được gửi tới Tổng Tư lệnh của QĐNDVN, đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp, để ông duyệt. Ngày 18-1-1974, sau khi đánh giá cẩn thận đề cương này, Tướng Giáp gọi người phó của ông, Tướng Hoàng Văn Thái, và ra lệnh chuẩn bị cho một kế hoạch chiến dịch chính thức nhằm vào việc giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam muộn nhất trong năm 1976. Quan điểm chung của ông Giáp là một cuộc tấn công hai giai đoạn, bao gồm một đợt công kích lớn của quân chủ lực vào Tây Nguyên, sau đó là một cuộc tấn công dốc toàn lực nhằm vào lực lượng bảo vệ Sài Gòn. (Nhiều sử gia – những người khẳng định Tướng Giáp ít hoặc không đóng vai trò nào trong Tổng Tiến công 1975 - cho rằng tới lúc đó ông đã bị hạn chế đến mức chỉ còn vị thế bung xung, do sức khỏe kém và do thất bại của ông trong hai chiến dịch 1968 và 1972. Tuy nhiên, những tư liệu của chính quyền cộng sản lại mô tả Giáp với tư cách một người tham gia rất nhiều vào việc lập kế hoạch và chỉ huy tổng thể chiến dịch từ lúc hình thành ý tưởng cho tới thắng lợi cuối cùng). Ngày 26-8-1974, sau khi xem lại một số bản dự thảo trước đó, Bộ Tổng Tham mưu hoàn tất “Kế hoạch chiến lược 1975-76" và ban hành trong ban lãnh đạo cấp cao của Đảng cũng như chuyển cho các chỉ huy quân sự cấp cao để xin ý kiến. Kế hoạch hoàn chỉnh cuối cùng được trình các lãnh đạo Đảng duyệt tại một phiên họp kéo dài của Bộ Chính trị vào tháng 10 năm 1974.
Mặc dù QĐNDVN biết họ đã giành được thế chủ động chiến lược ở miền Nam Việt Nam, kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu vẫn khá thận trọng, bởi họ vẫn đang phải đương đầu với một số vấn đề nghiêm trọng. Các nỗ lực của cộng sản nhằm xây dựng lại căn cứ du kích ở vùng nông thôn Việt Nam đã thất bại trên diện rộng, chỉ đạt 30% trong tổng số mục tiêu sức mạnh quân sự trong kế hoạch 1973-74 của các lực lượng vũ trang địa phương ở miền Nam. Thêm vào đó, cơ sở chính trị ở nội đô cũng rất yếu, và quan trọng nhất là, các lực lượng chính quy của QĐNDVN đối diện với tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng về vũ khí hạng nặng và đạn dược. Thêm nữa, mặc dù giới lãnh đạo của Bắc Việt tin rằng họ có một cửa cơ hội vài năm có một để giành chiến thắng trước khi Mỹ phục hồi trở lại sau những bê bối chính trị trong nước, QĐNDVN tin rằng họ vẫn phải cảnh giác với sự can thiệp có thể có từ nước ngoài. Trong các chỉ thị ban đầu của Tướng Giáp, có yêu cầu các lực lượng quân đội của miền Bắc phải chuẩn bị cho khả năng cuộc tổng tiến công có thể khiêu khích Mỹ ném bom trở lại vào miền Bắc hoặc thậm chí đổ bộ vào vịnh Bắc Bộ. Bộ Tổng Tham mưu quyết định rằng, xét các vấn đề này, QĐNDVN không thể đi tới một chiến dịch “tổng tấn công và nổi dậy toàn quốc” kiểu Tết Mậu Thân 1968, huy động lượng lớn du kích ở nông thôn và thành thị (mà họ không hề có), cũng như không có các nguồn lực để tiến hành một cuộc tấn công ồ ạt, trên toàn tuyến, theo kiểu truyền thống như chiến dịch Quảng Trị 1972.
Sự thiếu hụt về tăng thiết giáp và trọng pháo - điều kiện cần để tấn công vào các căn cứ ở cấp sư đoàn và trung đoàn vốn được trang bị rất đầy đủ của VNCH - đè nặng lên tâm trí những nhà hoạch định chiến lược của Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN, những người đã lập nên bản kế hoạch để trình Bộ Chính trị vào tháng 10 năm 1974. Sau này, người ta chủ yếu tìm hiểu xem tình trạng thiếu đạn trong quân đội VNCH tác động như thế nào đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam, mà không biết rằng chính QĐNDVN mới chịu thiếu hụt nghiêm trọng. Viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt ở danh mục “vũ khí tấn công” (xe tăng và pháo), đã giảm đáng kể từ sau Hiệp định Paris 1973. Những thiệt hại lớn của QĐNDVN trong chiến dịch Quảng Trị 1972 càng làm trầm trọng thêm vấn nạn thiếu hụt do sự suy giảm viện trợ này gây ra. Ngoài ra, phần lớn xe tăng và pháo của QĐNDVN ở trong tình trạng rất tồi tệ, phụ tùng thì thiếu. Nhiều đơn vị pháo binh của QĐNDVN, nhất là ở miền Nam, vẫn chỉ được trang bị súng cối hạng nhẹ, súng trường không giật (DKZ), hoặc ống phóng hỏa tiễn vác vai (B40).
Ở địa bàn hoạt động của Văn phòng Trung ương cục Miền Nam, tức là nửa phía nam của đất nước, bảy sư đoàn bộ binh (số 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9) và khung quân đoàn 4 chỉ được yểm trợ bởi năm tiểu đoàn pháo (hai trong số đó có trang bị pháo lấy được của Mỹ nhưng còn rất ít đạn) và ba tiểu đoàn tăng thiết giáp thiếu bộ đội. Khi Quân đoàn 2 của QĐNDVN chiếm Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975, họ cũng chỉ có tổng cộng 89 xe tăng và thiết giáp chở quân, 87 cỗ pháo.
Tuy nhiên, vấn đề gay go nhất là nạn thiếu nghiêm trọng đạn cho xe tăng và trọng pháo (tức là pháo dã chiến và cối 85mm trở lên). Hồi chiến dịch Quảng Trị 1972, quân đội miền Bắc đã bắn hơn 220.000 viên đạn xe tăng và trọng pháo, trong đó 150.000 viên đã được sử dụng chỉ riêng tại mặt trận Quảng Trị. Cho đến năm 1974, toàn bộ kho đạn pháo và đạn tăng của QĐNDVN, bao gồm tất cả đạn dược của cả các đơn vị chiến đấu ở chiến trường lẫn của các kho dự trữ chiến lược, tổng cộng chỉ được 100.000 viên. Tình hình đạn dược nghiêm trọng tới mức các chỉ huy pháo binh phải thay pháo lớn ở một số đơn vị bằng các khẩu pháo đã lỗi thời 76,2mm và 57mm, lấy từ kho ra.
Vì những vấn đề này, Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN ban hành sắc lệnh rằng tất cả các vũ khí hạng nặng và đạn dược còn lại phải được sử dụng thật tiết kiệm, để dành cho một đòn quyết định, chỉ tiến hành khi trận cuối cùng diễn ra. Kế hoạch 1975-76 chỉ cho phép dùng hơn 10% kho đạn tăng-pháo còn lại của QĐNDVN trong cả chiến dịch 1975. 45% được phân phối cho chiến dịch 1976, phần còn lại để dự trữ.
CÒN NỮA
Đoan Trang dịch từ nguyên tác North Vietnam's Final Offensive: Strategic Endgame Nonpareil - “Tổng Tiến công Mùa Xuân 1975: đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Tác giả Merle L. Pribbenow tốt nghiệp Đại học Washington năm 1968, chuyên ngành khoa học chính trị. Ông là nhân viên Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Đông Dương, có 27 năm kinh nghiệm nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có 5 năm làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tính đến ngày 29/4/1975. Kể từ khi về hưu (năm 1995), ông đã viết ba bài nghiên cứu lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, và dịch một cuốn sách của Bộ Quốc phòng Việt Nam sang tiếng Anh, xuất bản tháng 5/2002 tại Mỹ.
(*) Bài viết này được thực hiện vào năm 1999.
(**) Nguyên văn: conventional attack, nghĩa là một cuộc tấn công mang tính chất của chiến tranh quy ước. Chiến tranh quy ước là chiến tranh giữa các binh đoàn chủ lực, hay tác chiến binh chủng hợp thành.
Sunday, 4 April 2010
THÂN MỸ
Một trong những quan điểm hay thái độ chính trị bị “đặt vấn đề” ở Việt Nam giai đoạn này là “thân Mỹ bài Tàu”. Nói cách khác, nếu bạn bị ai đó kết tội là thân Mỹ bài Tàu, nghĩa là bạn có vấn đề về mặt tư tưởng – không nguy hiểm thì cũng lệch lạc, cực đoan.
Tất nhiên là tôi cũng được đội cái mũ “thân Mỹ bài Tàu” đó, và phải nói thật là mũ hơi rộng, tôi đội không vừa. Vì chỉ đúng một phần: tôi thích nước Mỹ và chẳng ưa gì chính quyền hiện nay của Trung Quốc (không đồng nhất với toàn thể nhân dân Trung Quốc, càng không có liên quan gì tới một vài người bạn Trung Quốc mà tôi biết). Nhưng làm gì đến nỗi lệch lạc, cực đoan nhỉ, hừ, tôi cứ nghĩ mình ôn hòa lắm cơ.
Tôi không chỉ thích Mỹ, mà còn thích cả Anh, Tây Ban Nha, có thể coi là “phương Tây” nói chung. Vâng, xin xác nhận là tôi thân phương Tây. Còn tại sao tôi thích Mỹ thì entry này sẽ giải thích ngay sau đây. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu thì phải nêu rõ và nhấn mạnh rằng tôi chưa bao giờ đến nước Mỹ, và chắc chắn là tôi hiểu biết rất ít về xứ sở này. Rất có thể những gì tôi nói sau đây đúng một phần mà sai đến chín phần. Có gì xin các bạn cứ chỉ giáo.
* * *
Những bạn Việt Nam từng học tiếng Anh qua bộ Streamline hẳn còn nhớ, một trong những bài đầu tiên trong quyển I, dạy về “sở hữu” thì phải, có giới thiệu vài nhân vật. Người thứ nhất là một minh tinh màn bạc, cô này mãn nguyện với cuộc sống của mình: “Life’s great. I’ve got everything” (Cuộc đời đẹp tuyệt. Tôi có tất cả mọi thứ). Người thứ hai là một gã thất nghiệp: “Life’s terrible. I don’t have anything” (Đời thật kinh khủng. Tôi chẳng có gì cả). Trong một bài khác, có sự so sánh giữa một tay rock star đi xe Roll Royce, và một thầy giáo, “cuộc sống cũng tạm được”.
Hồi học những bài này, tôi mới 12 tuổi. Rất ngạc nhiên, tự hỏi vì sao “bọn Tây” kỳ cục, sách dạy trẻ con mà đưa vào những nhân vật và hình vẽ mô tả một xã hội vô cùng bất công, phân biệt giàu nghèo. Thầy giáo thì nghèo khổ méo mó, mà ca sĩ nhạc rock thì đi xe choáng lộn. Minh tinh màn bạc phả phê phè phỡn, mà anh chàng thất nghiệp thì đi giày há mõm, đứng dầm mưa… Tôi cứ nghĩ nếu là sách do người Việt viết nhỉ, sẽ có các bạn Mơ, Thắm, Lụa, Đào, Kha, Thụ v.v. gì gì đấy, chăm học, ham lao động, và đều rất bình đẳng, tương thân tương ái. Làm gì có sự chênh lệch giàu nghèo khủng khiếp và tàn nhẫn thế kia?
Tôi bỏ qua chuyện đó rất nhanh. Tuy nhiên, tiếp tục học tiếng Anh qua các sách của Anh, Mỹ sau này, tôi phát hiện ra một điều còn kỳ cục hơn: Bè lũ tư bản Anh – Mỹ rất ít mượn các bài giảng để nói về chúng. Hay diễn đạt cách khác, chúng không hề có ý thức thông qua những cuốn sách giáo khoa đó để truyền bá văn hóa của chúng tới người học. Thay vì thế, chúng toàn dạy những chủ đề chẳng mấy liên quan trực tiếp đến chúng, hoặc không hề có giá trị đề cao chúng, chẳng hạn khí hậu ở miền xích đạo, sự ra đời của bài “Silent Night”, một ngày (vô công rồi nghề) của nữ hoàng Elizabeth, có khi hứng chí còn dạy cả về vũ khí, bom nguyên tử, rồi cấu trúc ADN, sự trôi giạt của các lục địa v.v.
Chưa kể, chúng còn đưa vào sách nhiều chủ đề rất phản cảm (từ “phản cảm” này tôi mượn của ông hiệu trưởng trường THPT Phan Đăng Lưu – trường vừa cấm nữ sinh mặc váy ngắn trên đầu gối vào học), chẳng hạn mô tả những vụ say xỉn ở quán bar hay là xô xát giữa cảnh sát và dân .v.v. Đọc mà thấy tình hình xã hội Anh – Mỹ sao nhiễu loạn?
Về điểm này thì Anh – Mỹ khác cả nước Pháp. Bạn cứ mở thử một cuốn sách dạy tiếng Pháp xem, rất có thể là sách sẽ được lồng ghép nhiều chủ đề về nước Pháp, nhằm tranh thủ truyền bá văn hóa – văn minh Pháp đến người học. Anh – Mỹ thì không thế, sách dạy tiếng có khi lại nhằm phổ biến những kiến thức khoa học, nghệ thuật không mấy liên quan tới Anh – Mỹ.
Nhưng… có lẽ cũng chính vì thế mà tôi thích học tiếng Anh. Thời kỳ Internet chưa xuất hiện ở Việt Nam, nhiều khi tôi phải tìm các sách dạy Anh ngữ của Mỹ và Anh để tìm hiểu một vấn đề gì đó, ví dụ “gió ether”, hiện tượng cực quang, tán sắc ánh sáng, 7 kỳ quan thế giới cổ đại… Tôi thích, vì tôi cảm thấy những người Anh và Mỹ viết sách thật sự đàng hoàng, đúng mực, không “chính trị hóa” giáo dục. Tôi thích, vì tôi cảm nhận thấy từ những cuốn sách của họ tinh thần khách quan khoa học thực sự. Đó là chưa kể còn vì điều này: Tôi đọc cách họ viết về vật lý, sinh học, di truyền học, địa lý căn bản .v.v. lại thấy… dễ hiểu và hấp dẫn hơn đọc sách của nhà mình viết nhiều. :-((
* * *
Không biết những gì tôi nghĩ có đúng không, nhưng tôi cảm nhận thấy ở họ - người Mỹ - một tinh thần tự phản biện rất sâu sắc. Họ dám nhìn thẳng vào những cái xấu của mình, không hề ngại chê mình cũng như không ngại để nước khác, dân tộc khác chê. Ngay sau khi cuộc chiến với Việt Nam kết thúc, đã có không biết bao nhiêu bài nghiên cứu, bài báo, cuốn sách viết về thất bại của Mỹ ở Việt Nam, tại sao Việt Nam thắng, sai lầm của Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ v.v. Để đến mức giờ đây, 35 năm sau sự kiện tháng 4/1975, chúng tôi đang phải tìm hiểu về lịch sử Việt Nam giai đoạn ấy… qua tài liệu của Mỹ. Và tìm hiểu một cách hào hứng, tin tưởng nữa mới khổ - tôi tin rằng họ viết với tinh thần khách quan khoa học, họ không cay cú, không có ý định “tuyên truyền” gì cả, mặc dù họ có thể làm điều đó.
Việt Nam đã có tài liệu nào phân tích một cách cụ thể thất bại (?) của quân đội miền Bắc trong chiến dịch Mậu Thân 1968 chưa? Đã có tài liệu nào “dám” đề cập tới sự kiệt quệ về kinh tế của Việt Nam hồi cuối những năm 1940 trong kháng chiến chống Pháp chưa?
Theo tôi biết thì chưa có. Hoặc có rồi mà “lưu hành nội bộ”. Hình như phải nói thẳng nói thật về thất bại, sai lầm, nhược điểm của mình, phải thừa nhận “tôi sai” là một việc khiến người Việt Nam rất đau khổ. Ngược lại, khi có dịp nói về thành công, về sự tài giỏi, trí tuệ, người Việt hân hoan lắm. Tôi không bao giờ quên bài học làm báo mà “người thày đầu tiên” đã dạy: “Ở Việt Nam thì, tin có yếu tố tích cực có thể được đưa lên trang nhất, ví dụ: Việt Nam xuất khẩu thành công pin sang Campuchia”. Điểm này quả là vô cùng khác biệt so với báo chí Mỹ. Trang nhất của họ chẳng khoe tin vui bao giờ thì phải.
Chủ quan mà phán, tôi tin rằng một dân tộc có tính cách thẳng thắn, chấp nhận nói về cái xấu của mình và bình thản nghe nước khác chê mình, đó là một dân tộc tiến bộ, hoặc ít nhất cũng đạt tới sự tiến bộ nhanh hơn các nước khác. Ở đất nước ấy, người ta không có cái văn hóa giãy lên đành đạch khi bị chỉ trích, kiểu: “Nó nói xấu tôi. Nó bôi nhọ tôi. Nó chống đối tôi”. Người ta không có sự vui mừng hả hê khi xuất khẩu thành công pin sang Campuchia. Không có sự tranh thủ dùng sách để truyền bá văn hóa và tài năng của mình theo cái cách mà chúng tôi gọi là “khoe thô”. Nói cho cùng thì Anh, Mỹ có sự quảng bá văn hóa của họ không? Có quá đi chứ, nhưng… nó tinh vi lắm. Bằng chứng là họ khiến một đứa bảo thủ như tôi cảm thấy thích nền văn hóa của họ, thông qua những cuốn sách giáo khoa về… vật lý.
Và, người ta cũng không có (hay là đã qua thời kỳ đó rồi?) những cuộc tranh luận trên mạng, nơi chỉ được vài câu là các tranh luận chuyển thành tấn công cá nhân cho bằng hết, phe này phồng mang trợn mắt chửi phe kia “ngu”, “xấu”, “chắc đời thất bại nên mới cay cú thù hận”, “ăn cứt Tây” v.v. Không có gì là “khách quan khoa học” cả, càng không có sự điềm tĩnh khi phê phán và nghe phê phán. Vì sao mà những cái đó lại khó đạt được đến thế cơ chứ?
Viết đến đây lại nhớ tới một cuốn sách về gương danh nhân mà tôi có viết “review” vài tháng trước, cuốn “5 phương trình làm thay đổi thế giới”. Là cuốn sách của một tác giả người Mỹ, nó chọn viết về 5 nhà khoa học nổi tiếng thuộc những quốc tịch khác nhau (khoe thô: cụ thể thế nào, xin mời bạn xem ở đây: http://www.tuanvietnam.net/2010-01-07-ghet-toan-phai-doc- ) Chẳng thấy tác giả nhảy lên sung sướng, hay có biểu hiện của “hội chứng vơ vào”, khi nói về một nhà khoa học nào đó chỉ cần hơi gần với nước Mỹ thôi. Vậy mà… ta cứ tưởng tượng sách danh nhân do một người Việt Nam viết nhỉ? Có khi sẽ vơ đủ các nhà khoa học, nghệ sĩ thành danh ở nước ngoài nhưng có… ông ngoại, mẹ kế v.v. là người gốc Việt cũng nên. Hoặc một cách đơn giản hơn là viết về những người đã đi khỏi Việt Nam từ lâu lắm. Bao nhiêu năm nay, chúng ta chẳng lôi mãi Đặng Thái Sơn ra nhắm đấy thôi, mặc dù anh ấy thọ giáo thầy Tây cơ mà?
Tất nhiên là tôi cũng được đội cái mũ “thân Mỹ bài Tàu” đó, và phải nói thật là mũ hơi rộng, tôi đội không vừa. Vì chỉ đúng một phần: tôi thích nước Mỹ và chẳng ưa gì chính quyền hiện nay của Trung Quốc (không đồng nhất với toàn thể nhân dân Trung Quốc, càng không có liên quan gì tới một vài người bạn Trung Quốc mà tôi biết). Nhưng làm gì đến nỗi lệch lạc, cực đoan nhỉ, hừ, tôi cứ nghĩ mình ôn hòa lắm cơ.
Tôi không chỉ thích Mỹ, mà còn thích cả Anh, Tây Ban Nha, có thể coi là “phương Tây” nói chung. Vâng, xin xác nhận là tôi thân phương Tây. Còn tại sao tôi thích Mỹ thì entry này sẽ giải thích ngay sau đây. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu thì phải nêu rõ và nhấn mạnh rằng tôi chưa bao giờ đến nước Mỹ, và chắc chắn là tôi hiểu biết rất ít về xứ sở này. Rất có thể những gì tôi nói sau đây đúng một phần mà sai đến chín phần. Có gì xin các bạn cứ chỉ giáo.
* * *
Những bạn Việt Nam từng học tiếng Anh qua bộ Streamline hẳn còn nhớ, một trong những bài đầu tiên trong quyển I, dạy về “sở hữu” thì phải, có giới thiệu vài nhân vật. Người thứ nhất là một minh tinh màn bạc, cô này mãn nguyện với cuộc sống của mình: “Life’s great. I’ve got everything” (Cuộc đời đẹp tuyệt. Tôi có tất cả mọi thứ). Người thứ hai là một gã thất nghiệp: “Life’s terrible. I don’t have anything” (Đời thật kinh khủng. Tôi chẳng có gì cả). Trong một bài khác, có sự so sánh giữa một tay rock star đi xe Roll Royce, và một thầy giáo, “cuộc sống cũng tạm được”.
Hồi học những bài này, tôi mới 12 tuổi. Rất ngạc nhiên, tự hỏi vì sao “bọn Tây” kỳ cục, sách dạy trẻ con mà đưa vào những nhân vật và hình vẽ mô tả một xã hội vô cùng bất công, phân biệt giàu nghèo. Thầy giáo thì nghèo khổ méo mó, mà ca sĩ nhạc rock thì đi xe choáng lộn. Minh tinh màn bạc phả phê phè phỡn, mà anh chàng thất nghiệp thì đi giày há mõm, đứng dầm mưa… Tôi cứ nghĩ nếu là sách do người Việt viết nhỉ, sẽ có các bạn Mơ, Thắm, Lụa, Đào, Kha, Thụ v.v. gì gì đấy, chăm học, ham lao động, và đều rất bình đẳng, tương thân tương ái. Làm gì có sự chênh lệch giàu nghèo khủng khiếp và tàn nhẫn thế kia?
Tôi bỏ qua chuyện đó rất nhanh. Tuy nhiên, tiếp tục học tiếng Anh qua các sách của Anh, Mỹ sau này, tôi phát hiện ra một điều còn kỳ cục hơn: Bè lũ tư bản Anh – Mỹ rất ít mượn các bài giảng để nói về chúng. Hay diễn đạt cách khác, chúng không hề có ý thức thông qua những cuốn sách giáo khoa đó để truyền bá văn hóa của chúng tới người học. Thay vì thế, chúng toàn dạy những chủ đề chẳng mấy liên quan trực tiếp đến chúng, hoặc không hề có giá trị đề cao chúng, chẳng hạn khí hậu ở miền xích đạo, sự ra đời của bài “Silent Night”, một ngày (vô công rồi nghề) của nữ hoàng Elizabeth, có khi hứng chí còn dạy cả về vũ khí, bom nguyên tử, rồi cấu trúc ADN, sự trôi giạt của các lục địa v.v.
Chưa kể, chúng còn đưa vào sách nhiều chủ đề rất phản cảm (từ “phản cảm” này tôi mượn của ông hiệu trưởng trường THPT Phan Đăng Lưu – trường vừa cấm nữ sinh mặc váy ngắn trên đầu gối vào học), chẳng hạn mô tả những vụ say xỉn ở quán bar hay là xô xát giữa cảnh sát và dân .v.v. Đọc mà thấy tình hình xã hội Anh – Mỹ sao nhiễu loạn?
Về điểm này thì Anh – Mỹ khác cả nước Pháp. Bạn cứ mở thử một cuốn sách dạy tiếng Pháp xem, rất có thể là sách sẽ được lồng ghép nhiều chủ đề về nước Pháp, nhằm tranh thủ truyền bá văn hóa – văn minh Pháp đến người học. Anh – Mỹ thì không thế, sách dạy tiếng có khi lại nhằm phổ biến những kiến thức khoa học, nghệ thuật không mấy liên quan tới Anh – Mỹ.
Nhưng… có lẽ cũng chính vì thế mà tôi thích học tiếng Anh. Thời kỳ Internet chưa xuất hiện ở Việt Nam, nhiều khi tôi phải tìm các sách dạy Anh ngữ của Mỹ và Anh để tìm hiểu một vấn đề gì đó, ví dụ “gió ether”, hiện tượng cực quang, tán sắc ánh sáng, 7 kỳ quan thế giới cổ đại… Tôi thích, vì tôi cảm thấy những người Anh và Mỹ viết sách thật sự đàng hoàng, đúng mực, không “chính trị hóa” giáo dục. Tôi thích, vì tôi cảm nhận thấy từ những cuốn sách của họ tinh thần khách quan khoa học thực sự. Đó là chưa kể còn vì điều này: Tôi đọc cách họ viết về vật lý, sinh học, di truyền học, địa lý căn bản .v.v. lại thấy… dễ hiểu và hấp dẫn hơn đọc sách của nhà mình viết nhiều. :-((
* * *
Không biết những gì tôi nghĩ có đúng không, nhưng tôi cảm nhận thấy ở họ - người Mỹ - một tinh thần tự phản biện rất sâu sắc. Họ dám nhìn thẳng vào những cái xấu của mình, không hề ngại chê mình cũng như không ngại để nước khác, dân tộc khác chê. Ngay sau khi cuộc chiến với Việt Nam kết thúc, đã có không biết bao nhiêu bài nghiên cứu, bài báo, cuốn sách viết về thất bại của Mỹ ở Việt Nam, tại sao Việt Nam thắng, sai lầm của Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ v.v. Để đến mức giờ đây, 35 năm sau sự kiện tháng 4/1975, chúng tôi đang phải tìm hiểu về lịch sử Việt Nam giai đoạn ấy… qua tài liệu của Mỹ. Và tìm hiểu một cách hào hứng, tin tưởng nữa mới khổ - tôi tin rằng họ viết với tinh thần khách quan khoa học, họ không cay cú, không có ý định “tuyên truyền” gì cả, mặc dù họ có thể làm điều đó.
Việt Nam đã có tài liệu nào phân tích một cách cụ thể thất bại (?) của quân đội miền Bắc trong chiến dịch Mậu Thân 1968 chưa? Đã có tài liệu nào “dám” đề cập tới sự kiệt quệ về kinh tế của Việt Nam hồi cuối những năm 1940 trong kháng chiến chống Pháp chưa?
Theo tôi biết thì chưa có. Hoặc có rồi mà “lưu hành nội bộ”. Hình như phải nói thẳng nói thật về thất bại, sai lầm, nhược điểm của mình, phải thừa nhận “tôi sai” là một việc khiến người Việt Nam rất đau khổ. Ngược lại, khi có dịp nói về thành công, về sự tài giỏi, trí tuệ, người Việt hân hoan lắm. Tôi không bao giờ quên bài học làm báo mà “người thày đầu tiên” đã dạy: “Ở Việt Nam thì, tin có yếu tố tích cực có thể được đưa lên trang nhất, ví dụ: Việt Nam xuất khẩu thành công pin sang Campuchia”. Điểm này quả là vô cùng khác biệt so với báo chí Mỹ. Trang nhất của họ chẳng khoe tin vui bao giờ thì phải.
Chủ quan mà phán, tôi tin rằng một dân tộc có tính cách thẳng thắn, chấp nhận nói về cái xấu của mình và bình thản nghe nước khác chê mình, đó là một dân tộc tiến bộ, hoặc ít nhất cũng đạt tới sự tiến bộ nhanh hơn các nước khác. Ở đất nước ấy, người ta không có cái văn hóa giãy lên đành đạch khi bị chỉ trích, kiểu: “Nó nói xấu tôi. Nó bôi nhọ tôi. Nó chống đối tôi”. Người ta không có sự vui mừng hả hê khi xuất khẩu thành công pin sang Campuchia. Không có sự tranh thủ dùng sách để truyền bá văn hóa và tài năng của mình theo cái cách mà chúng tôi gọi là “khoe thô”. Nói cho cùng thì Anh, Mỹ có sự quảng bá văn hóa của họ không? Có quá đi chứ, nhưng… nó tinh vi lắm. Bằng chứng là họ khiến một đứa bảo thủ như tôi cảm thấy thích nền văn hóa của họ, thông qua những cuốn sách giáo khoa về… vật lý.
Và, người ta cũng không có (hay là đã qua thời kỳ đó rồi?) những cuộc tranh luận trên mạng, nơi chỉ được vài câu là các tranh luận chuyển thành tấn công cá nhân cho bằng hết, phe này phồng mang trợn mắt chửi phe kia “ngu”, “xấu”, “chắc đời thất bại nên mới cay cú thù hận”, “ăn cứt Tây” v.v. Không có gì là “khách quan khoa học” cả, càng không có sự điềm tĩnh khi phê phán và nghe phê phán. Vì sao mà những cái đó lại khó đạt được đến thế cơ chứ?
Viết đến đây lại nhớ tới một cuốn sách về gương danh nhân mà tôi có viết “review” vài tháng trước, cuốn “5 phương trình làm thay đổi thế giới”. Là cuốn sách của một tác giả người Mỹ, nó chọn viết về 5 nhà khoa học nổi tiếng thuộc những quốc tịch khác nhau (khoe thô: cụ thể thế nào, xin mời bạn xem ở đây: http://www.tuanvietnam.net/2010-01-07-ghet-toan-phai-doc- ) Chẳng thấy tác giả nhảy lên sung sướng, hay có biểu hiện của “hội chứng vơ vào”, khi nói về một nhà khoa học nào đó chỉ cần hơi gần với nước Mỹ thôi. Vậy mà… ta cứ tưởng tượng sách danh nhân do một người Việt Nam viết nhỉ? Có khi sẽ vơ đủ các nhà khoa học, nghệ sĩ thành danh ở nước ngoài nhưng có… ông ngoại, mẹ kế v.v. là người gốc Việt cũng nên. Hoặc một cách đơn giản hơn là viết về những người đã đi khỏi Việt Nam từ lâu lắm. Bao nhiêu năm nay, chúng ta chẳng lôi mãi Đặng Thái Sơn ra nhắm đấy thôi, mặc dù anh ấy thọ giáo thầy Tây cơ mà?