Sau khi Pháp luật TP.HCM đăng bài phản ánh về việc phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” mang đậm yếu tố Trung Hoa, độc giả Trần Hùng Phương đã có phản hồi (trích): “… rất cảm ơn các nhà sử học đã nghiên cứu rất nhiều về lịch sử Việt Nam. Nhưng các ông có thể nào ngồi lại cùng nhau cho chúng tôi biết rằng lịch sử Việt Nam là như thế nào không? Các ông ngồi đó mà bàn cãi với nhau việc này, việc nọ thì các nhà làm phim sao mà dám làm nhiều về phim cổ trang?..." .
Nhiều khán giả của phim cũng băn khoăn, vậy nếu phim mang đậm chất Việt, thì chất Việt phải như thế nào? Đi xa hơn nữa, trường hợp của “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” đặt ra vấn đề: Cần làm phim lịch sử ở Việt Nam ra sao để không cho ra những sản phẩm vừa tốn kém vừa bị phản ứng kịch liệt như thế này.
“Đường tới thành Thăng Long” quá nguy nga
Ấn tượng nổi bật từ những hình ảnh của phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long” (mà những đoạn hấp dẫn nhất hoặc đặc trưng nhất đã được đưa vào trailer quảng cáo) là sự hoành tráng của bối cảnh và sự ấm áp, rực rỡ của trang phục Việt giai đoạn Đinh - Tiền Lê – Lý (từ năm 980 khi Lê Hoàn lên ngôi đến năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long).
Nói về bối cảnh, cung điện trong phim có tòa tới 2-3 tầng, lợp ngói sắc xanh xám. Thế mà, theo mô tả trong những tư liệu sớm nhất của người phương Tây về Thăng Long (thế kỷ 17), hầu hết nhà ở kinh thành thời đó là nhà tranh nứa lá, mái rạ. Giáo sĩ Baldinotti viết năm 1686: “Vì nhà bằng tre nứa nên Thăng Long hay bị hỏa hoạn, có lần thiêu rụi tới năm, sáu nghìn nóc nhà, song nhờ Kẻ Chợ vốn có nhiều hồ ao nên dập tắt lửa dễ dàng và chỉ bốn, năm hôm sau, nhà cửa lại dựng lên san sát như cũ”. Cho tới thế kỷ 19, nhà cửa trên các phố ở Hà Nội vẫn chủ yếu bằng tre nứa lá (xem ảnh) và chỉ có một tầng, không ngói.
Không có sử liệu về kiến trúc thời Lê Hoàn - Lý Công Uẩn, song các nhà làm phim hoàn toàn có thể suy luận rằng vào thế kỷ 10-11, kỹ thuật xây dựng của nước ta rất khó tạo ra được những tòa nhà gạch 2-3 tầng lợp ngói. Ngay cả đình, chùa bằng gỗ cũng chỉ có một tầng trên mặt đất và một gác chuông trên “tầng” hai. Về mái ngói, mãi tới cuối đời Lê, đầu đời Nguyễn, nước ta mới có ngói lợp tráng men (và kỹ thuật tráng men này đã là một bước tiến rất lớn của nghề gốm). Theo ông Phạm Hoàng Quân, chuyên gia cổ sử Trung Quốc và Việt Nam, do tráng men óng ánh nên nó được gọi là ngói lưu ly. Một số công trình ở kinh thành Huế thời Nguyễn đã được lợp thứ ngói rất xa xỉ này. Có hai loại ngói chính là thanh lưu ly (màu xanh) và hoàng lưu ly (màu vàng).
Vậy phải “phục dựng” khung cảnh thế kỷ 10-11 ra sao? Họa sĩ Tú Ân, một người từng bỏ nhiều năm tìm hiểu kiến trúc, trang phục cổ Việt Nam để minh họa truyện tranh, suy đoán rằng nhà cửa của dân ngày ấy là nhà tranh vách đất, mái rạ, còn “đình, chùa và cung điện có thể xây bằng gỗ, rừng Việt Nam ngày ấy chắc còn nhiều gỗ quý”, hoặc gạch (kỹ thuật làm gạch của người Trung Quốc đã được lưu truyền sang Việt Nam từ thời Bắc thuộc). Điều chắc chắn là ở vào thời Đinh - Tiền Lê - Lý, cung điện, nhà cửa của Việt Nam chưa thể lợp ngói xanh, cao tới 2-3 tầng như vậy.
Chưa kể, địa thế Hoa Lư thời ấy nhỏ hẹp với đồi núi, sông ngòi, Thăng Long cũng vẫn còn là đất trũng, nhiều ao tù, không thể xây dựng trên đó những cung điện nguy nga, hoành tráng như bộ phim đã mô tả. Ngay cả ở châu Âu, nơi vốn được xem là tiến nhanh hơn châu Á về cấp độ văn minh, các công trình lớn cũng phải trải qua vài trăm năm mới hình thành.
… và quá lộng lẫy
Về phục trang, điều gây ấn tượng là sự ấm áp, dày dặn và màu sắc rực rỡ của trang phục trong phim “Lý Công Uẩn”. Các chuyên gia lịch sử thời trang Việt, nếu được hỏi ý kiến, đều sẽ cho biết rằng ngành may mặc của Việt Nam đã phải trải qua “một chặng đường tiến hóa” dài đến mức nào, từ chất liệu tới kỹ thuật. Buổi đầu phát triển, chất liệu của chúng ta đã chỉ là vải thô, dệt rất thưa (do kỹ thuật dệt còn kém), với những màu nhuộm đơn giản: đen, nâu, chàm, tím…, sử dụng những nguyên liệu tạo màu dễ kiếm như vỏ cây, rễ cây, hoa lá…
Đập vào mắt khán giả là những chiếc mũ đội đầu có “mái che” rất giống mũ của… Tần Thủy Hoàng. Các nhà làm phim lập luận rằng vua nước ta rập khuôn trang phục của hoàng đế Trung Hoa. Tuy nhiên, theo ông Phạm Hoàng Quân, rất khó có khả năng Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ “bệ nguyên” mũ của vua Trung Quốc: “Triều đình Trung Hoa không khi nào chịu cho vua một nước “đàn em” mặc vương phục và đội mũ y hệt vua của họ, vì với họ, mũ mão của hoàng đế là để thể hiện uy quyền của “thiên tử”. Vua nước ta có muốn sử dụng theo cũng phải chế lại”.
Bà Đoàn Thị Tình, họa sĩ thiết kế chính của phim, cho biết bà đã tham khảo nhiều sử liệu, trong đó có Lịch triều Hiến chương Loại chí (Phan Huy Chú) để thiết kế phục trang. Nhưng nếu theo đúng sách này, thì ở mục “Quy chế về mũ áo của đế vương” (thuộc phần Lễ nghi chí) có chép:
“Lê Đại Hành lên ngôi, mặc áo long cổn, về sau mặc áo phần nhiều dùng vóc đỏ, mũ sức trân châu.
Lý Thái Tông mới chế thứ mũ gọi là ‘bát giác tiêu dao’ bằng vàng (tên mũ, lối mũ ấy nay không khảo cứu được).
Lời xét của Phan Huy Chú:
Từ đời Lý, đời Trần trở về trước, mũ áo của vua thế nào, không thể khảo cứu được. Xem trong sử có hai thứ kể trên, tạm chép ra đây để biết đại khái”. (bản dịch của Viện Sử học)
Điều đó có nghĩa là mũ của vua Lê, vua Lý Thái Tổ thế nào, Phan Huy Chú cũng không biết được, nhưng khả năng “bệ nguyên xi” chiếc mũ “Tần Thủy Hoàng” của Trung Quốc là rất thấp.
Cũng sách của Phan Huy Chú chép, phần về phẩm phục của các quan: “Lý Thánh Tông năm Chương Thánh thứ nhất (1059), vua ngự điện Thủy Tinh, các quan đến chầu, bắt phải đội mũ đi hia mới cho vào chầu. Nghi lễ vào chầu đủ cả mũ hia bắt đầu từ đó”. Chính vị sử gia đã có lời xét về phẩm phục các quan trước đó rằng như thế “đủ thấy là sơ sài”.
Một chi tiết nữa là những họa tiết thêu trên áo vua quan, hoàng hậu. Nếu thừa nhận ông tổ nghề thêu ở Việt Nam là Lê Công Hành, đi sứ sang Trung Quốc vào đời Lê Thái Tông (trị vì từ 1433-1442) thì ta phải thấy rằng vào thời Tiền Lê - Lý Công Uẩn, áo xống của người triều đình chưa thể thêu thùa lộng lẫy như thế.
Các họa sĩ thiết kế và cố vấn mỹ thuật của phim đều chưa bình luận về màu sắc vải vóc cũng như chiếc mũ của vua trong phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long”.
Đoan Trang
***********
Yên Thảo ghi lại lời GS.TS Đoàn Thị Tình, người tư vấn phục trang cho phim:
“Tôi tự hào về những trang phục trong phim”
Tôi không ngạc nhiên khi khán giả phản ứng trang phục trong phim giống Trung Hoa quá. Thứ nhất, trước nay chúng ta chưa có bộ phim cổ trang nào về giai đoạn lịch sử này. Thứ hai, khán giả đã xem quá nhiều phim Trung Quốc và chỉ mới xem qua trailer nên cảm giác thấy giống là khó tránh khỏi.
Tuy nhiên, tôi xin khẳng định, toàn bộ trang phục trong phim là dựa trên chính sử “Đại Việt Sử ký Toàn thư”, “Lịch triều Hiến chương Loại chí”… đến các tác phẩm mỹ thuật, điêu khắc như tượng, phù điêu… còn hiện hữu ở bảo tàng và nhiều di tích đình, chùa… chứ không phải chúng tôi tự vẽ ra. Đặc biệt, khi thiết kế trang phục, chúng tôi phải dựa vào các miêu tả của thư tịch cổ và tượng thời Lý tại đình đền và long bào của vua Lý dựa theo tượng vua Lý ở chùa Kiến Sơ (Hà Nội). Còn giáp trụ của tướng lĩnh dựa vào 8 pho tượng Kim Cương tại các chùa ở Bắc Ninh, Hà Nam Chúng ta chịu đô hộ 1000 năm Bắc thuộc, đặc biệt ở các triều đại này chịu sự xâm lược của nhà Tống nên trang phục giống Trung Quốc cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng nó cũng chỉ tương đồng ở kết cấu, còn họa tiết thì đều đã được Việt hóa. Xin nhấn mạnh là giống chứ không phải rập khuôn.
Tôi lấy ví dụ, long bào của vua Tống đính rất nhiều ngọc ngà, châu báu rất lộng lẫy, còn long bào của vua Lý chỉ thêu chìm; giáp phục đời Lý có họa tiết hoa mai, hoa cúc…. mà giáp phục Trung Quốc không có; mũ miện của chúng ta nhỏ, hẹp trong khi mũ miện nhà Tống cánh chuồn dài, cong phía mép; hơn nữa, việc đưa họa tiết hoa sen vào long bào của vua Lý Công Uẩn cũng là minh chứng rất rõ cho văn hóa Việt Nam.
Tôi hoàn toàn tự hào về những trang phục mà tôi đã thiết kế cho bộ phim này.
http://phapluattp.vn/20100915125346433p1021c1083/kien-truc-nguy-nga-trang-phuc-long-lay-kieu-tau.htm
KỲ SAU: Phim lịch sử Việt Nam: làm sai là di hại cho khán giả