(Post bài này nhân ngày nghe tin blogger Cô Gái Đồ Long bị bắt giam, đúng là “không tin được dù đó là sự thật”).
* * *
TỪ THỜI BAO CẤP TỚI THỜI @: HẤP DẪN, LÁ CẢI VÀ SỨC ÉP
Làm báo từ năm 1966, từng giữ chức vụ Phó TBT các tờ “Tuần Tin Tức”, “Vietnam Courrier”… của Thông tấn xã Việt Nam, ông Trần Đình Thảo có duyên may chứng kiến sự thay đổi và phát triển của báo chí Việt Nam suốt từ thời chiến tranh, qua những năm “đêm trước Đổi Mới”, tới nay. May mắn, mà cũng có thể là không may, vì như ông nói: “Bây giờ mà trở lại làm báo như thời bao cấp thì chết. Khổ lắm, bực lắm, bức xúc lắm. Tất nhiên là cũng có cái vui…”.
Niềm vui giản đơn
Từ những năm chiến tranh, kéo dài suốt tới trước Đổi Mới, Thông tấn xã Việt Nam là cơ quan gần như độc quyền về tin tức. Số lượng báo chí ngày đó rất ít, các báo cũng không có phóng viên thường trú, nên tin tức trông cả vào “nhà phân phát” là Thông tấn xã. Vậy là các sự kiện chính trị quan trọng, như bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp, trước đó nữa trong thời chiến là tin bắn rơi máy bay, thì chỉ có phóng viên Thông tấn xã đưa, và phải tìm đủ cách để gửi từ địa phương về tòa soạn: điện báo, công văn hỏa tốc. Còn nếu khoảng cách từ địa phương tới tòa soạn dưới 150 km, thì phóng viên chỉ có nước… chịu khó đạp xe về.
Các nhà báo của Thông tấn xã, báo “Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân” ngày trước hẳn chẳng lạ lẫm gì việc đạp xe hơn trăm cây số từ sáng tới chiều để kịp gửi một bài viết mừng chiến thắng. Nhưng cũng chính vào những ngày gian khổ ấy, các tấm gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt được báo chí phát hiện, cổ vũ mạnh mẽ: Chu Văn Dị, Ngô Thị Tuyển, Nguyễn Thị Hằng, Cù Thị Hậu… Vai trò, nhiệm vụ của báo chí thời đó là cổ súy người tốt việc tốt. Dường như đó là cả một “thời của những người anh hùng”.
Thế rồi chiến tranh qua đi. Các nhà báo năm xưa, ngoài thì giờ viết lách, xuống cơ sở đi thực tế, còn phải đi xếp hàng, và không còn chuyện “khổ mà thương nhau” như thời trước chiến tranh. Không riêng các nhà báo, đó là thực tế khắc nghiệt mà cả xã hội phải trực diện. Tuy nhiên, nhiều nhà báo, nhờ ưu thế nghề nghiệp của mình, cũng hưởng chút đặc quyền, ví dụ có thể quen biết bà cửa hàng trưởng hay cô mậu dịch viên để được ưu tiên mua hàng. Ông Trần Đình Thảo nói vui: “Nhà báo thời bao cấp, những lúc được mời đi ăn liên hoan tổng kết năm ở hợp tác xã này, xí nghiệp kia, là mừng lắm. Lũ chúng tôi thường chỉ ăn tí cơm tí canh, còn các món khô như giò, chả, thịt gà luộc… thì len lén gói lại mang về nhà cho con”.
Chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong (*), từng làm Phó TBT tạp chí “Thị trường và Giá cả” giai đoạn 1983-1995, cũng kể rằng thời bao cấp, nhà báo đi đây đi đó, rất hay được cơ sở tặng cho khi thì chai nước mắm, lúc lại cân cá khô. “Như thế là quà quý lắm đấy, vì có thể đem về Hà Nội ăn dần hoặc bán lại. Kể ra đó cũng là những niềm vui nho nhỏ, giản đơn của nghề báo”.
Và nỗi niềm…
Cây bút gạo cội, tác giả Trần Đình Vân của “Sống như Anh” nổi tiếng năm nào, nhà báo Thái Duy, không giấu cảm giác buồn và nuối tiếc khi nói về “báo chí thời bao cấp”: “Không cạnh tranh. Không sạp báo – ai muốn đọc phải ra bưu điện mà mua. Nói thật là ngày ấy báo chí chẳng mấy người đọc, nên nhà báo cũng mất nghề. Tôi đơn cử như đưa tin về kỳ họp Quốc hội chẳng hạn, làm gì có tường thuật, phỏng vấn như bây giờ. Khai mạc, bế mạc, đã có Thông tấn xã đưa tin, chúng tôi chỉ việc lấy lại, hoặc lấy bài phát biểu đã duyệt kỹ của đại biểu Quốc hội. Không có nghề”. Ông trầm ngâm hồi lâu khi phải so sánh: “Bây giờ thì báo chí được viết đủ kiểu. Bây giờ người viết báo có rất nhiều việc để làm”.
Bản thân “người của Thông tấn xã”, ông Trần Đình Thảo, cũng than: “Làm báo ngày trước buồn vì kỹ thuật kém, thông tin lưu chuyển khó khăn. Có cả nỗi buồn vì sự phong tỏa thông tin. Viết về họp Quốc hội thì chúng tôi cũng chỉ đưa tin khai mạc, bế mạc ra nghị quyết. Bây giờ phỏng vấn là một thể loại báo chí, ngày xưa phỏng vấn chỉ là để xin tài liệu thôi. Hầu như không có phỏng vấn hỏi - đáp trên mặt báo, muốn phỏng vấn là phải trình văn bản có đóng dấu, ký tên. Ngày trước, làm gì có chuyện đấu tranh chống tham nhũng trên báo? Làm gì có điều tra?”.
Không đấu tranh, không điều tra, và không có cả thiên tai, mất mùa. Cùng lắm thì có tin đồng chí X đi thăm hỏi đồng bào ở tỉnh Y, nơi đang hăng hái phục hồi, tăng gia sản xuất sau đợt mưa lũ ngày trước.
Viết các tin, bài chính trị, tin bài nào cũng phải duyệt qua 4-5 cửa ải (ông Thảo gọi đùa là “vũ môn”). Đưa tin một đồng chí lãnh đạo cấp cao đi thăm triển lãm (lúc 10h sáng) thì viết xong phải đạp xe mang bài tới tận nhà riêng (2h chiều) và ngồi chờ đồng chí duyệt hoặc chỉ đạo thư ký làm việc trực tiếp với phóng viên, sửa từng từ từng câu… cho tới 5h chiều, rồi hối hả về tòa soạn xử lý - theo nghĩa là dùng nguyên bản đã sửa, không được sai một chữ.
Ảnh tư liệu (VOV/báo Thái Nguyên).
Một nền báo chí sạch bong lá cải
Tiếp câu chuyện so sánh “thời xưa, thời nay”, các nhà báo chỉ ra một đặc điểm nổi bật của báo chí trước Đổi Mới: Không đưa tin lá cải, được hiểu chung là những chuyện giật gân, có liên quan tới bạo lực, tình dục hoặc đời tư người nổi tiếng, hoặc tào lao vô bổ.
Mảng văn hóa – văn nghệ thỉnh thoảng mới có một bài như là “Nghệ sĩ Trà Giang với những kỷ niệm về Bác Hồ”. “Đời tư” lắm thì nhà báo cũng chỉ viết rằng nghệ sĩ từng là học sinh miền Nam, rất yêu mến Bác Hồ, khi đóng phim “Ngày lễ thánh” đã chủ động về vùng đạo hàng tháng trời để sống cùng giáo dân, thâm nhập, quan sát thực tế. Nhà báo Trần Đình Thảo nói về một kỹ thuật viết thời đó: “Có thể đưa các thông tin thuộc về đời tư nếu đó là chi tiết phục vụ cho việc làm đẹp thêm nhân vật. Ví dụ giữa hai điển hình học giỏi thì sẽ chọn cậu bé chăn vịt, con nhà nghèo, thay vì chọn cậu con trai ông bí thư hay chủ tịch tỉnh”.
Quả thật, báo chí những năm trước Đổi Mới hết sức nghiêm túc khi viết các bài chân dung. Chẳng hạn, người đọc báo thập niên 70-80 thế kỷ trước có thể nhớ mãi những gương mặt học sinh đoạt giải toán quốc tế từng được nhà báo Hàm Châu khắc họa chân dung, như Hoàng Lê Minh, Vũ Đình Hòa, Nguyễn Thị Thiều Hoa… Đó là những nhân vật tuyệt đẹp: yêu khoa học, ham học, chăm lao động, thương yêu gia đình, đoàn kết chân thành với bạn bè. Tuy nhiên, điều này cũng làm nên một đặc điểm chung: Mọi chân dung đều quá tròn trịa, vẹn toàn. Nhân vật nào cũng hoàn hảo, không tì vết.
So với ngày ấy, báo chí, nhất là trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, nay đã quá khác. Ông Thảo cười bảo, trước Đổi Mới, quyết là không có chuyện báo “đăng ảnh cô diễn viên bụng lùm lùm để đưa tin cô ấy có bầu, thậm chí còn khoanh cái vòng tròn vào bụng cô ta”. Tuyệt nhiên không có những tin kiểu Hồ Ngọc Hà có bầu với Cường đô-la. Xu thế lá cải hóa này, theo ông, giờ đã đến mức báo động. Tin “tào lao” đầy mặt báo. Chức năng giải trí - xưa kia là điều tuyệt đối không có ở báo chí ta - đã lên ngôi.
Tirage - nỗi lo muôn thuở
Và nỗi lo vẫn còn đó: Báo chí ngày nay phong phú hơn, vui hơn, dễ đọc hơn, đáng đọc hơn, tóm lại là hay hơn, nhưng tirage (lượng phát hành) mỗi tờ vẫn không cao hơn, vẫn chỉ ở mức 5 con số như thời bao cấp, họa hoằn mới có tờ đạt 6 con số. “Thời bao cấp, tirage phản ánh số người được quyền dùng tiền Nhà nước mua báo, được phép đọc báo. Thời nay, tirage là con số người bỏ tiền túi ra mua báo. Thời thế đã thay đổi. Nhưng vẫn không một tờ nào được phát hành tới triệu bản, đó là điều đáng buồn” - nhà báo Thái Duy nhận định.
Việc người đọc phải chuyển từ “xài chùa” sang “chi tiền túi”, trong khi mặt bằng giá báo tăng lên, có thể là một trong các nguyên nhân khiến tirage báo chí vẫn còn thấp. Ngoài ra, người ta cũng nhanh chóng chỉ ra một yếu tố quan trọng đứng sau chuyện này: sự xuất hiện của Internet. Một thống kê không chính thức cho thấy bản thân các báo in đã đưa tin trùng nhau tới 70-80%, ngay số tin bài trùng nhau đó cũng có thể được dễ dàng tìm thấy trên báo điện tử. “Điểm yếu của báo chí hiện nay là không còn những thông tin độc quyền, làm nên sức mạnh, sức hút của tờ báo” - ông Trần Đình Thảo nói. “Mà nếu có thì báo mạng cũng sẽ cóp, xào lại hết”.
Điều an ủi là hiện tượng “lá cải hóa” và “tirage sụt giảm” xảy ra không chỉ ở Việt Nam. Trong khoảng hai thập kỷ qua, sự bùng nổ của Internet và các loại hình giải trí đã khiến báo chí truyền thống khốn đốn. Một nhà nghiên cứu người Mỹ, ông Alex Jones, giải thích rằng: “Khi người ta phải lựa chọn đưa tin gì trên cơ sở cái gì thu hút khán giả nhiều nhất, chứ không dựa vào tầm quan trọng của tin tức, thì khi đó các tiêu chuẩn dành cho tin lá cải được áp dụng. Các tòa soạn báo chí nghiêm túc biến dần thành tòa soạn tin lá cải… Khuynh hướng hiện tại là lá cải hóa - nghĩa là hình thành một nền báo chí mà ưu tiên duy nhất là lợi nhuận chứ không phải là lợi ích công kết hợp với lợi nhuận”.
Xu hướng đó đang là mối nguy nan cho báo chí Mỹ, và cũng không xa lạ với Việt Nam, mặc dù nền báo chí Việt Nam mới đang trong giai đoạn chuyên nghiệp hóa, nghĩa là tách dần khỏi hoạt động tuyên truyền. Cùng một lúc, báo chí Việt Nam vừa phải chuyên nghiệp hóa vừa phải lá cải hóa.
Thế hệ những người làm báo ngày nay có lẽ vừa may mắn, vừa không may mắn. May vì họ làm báo trong một đất nước đang chuyển đổi, nơi xã hội có rất nhiều điều chưa biết, muốn biết và cần được biết, nơi nhu cầu thông tin của công chúng là rất cao. Các tờ báo luôn có nhiều khoảng trống để lấp. Các nhà báo luôn có nhiều chủ đề để viết. Nhưng không may mắn, bởi vì cùng một lúc, họ bị áp lực phải cuốn theo cả cái đà chuyên nghiệp hóa lẫn lá cải hóa của báo chí.
--------
(*) Ông Đặng Phong đã mất ngày 20-8-2010.