Y mới có người yêu. Cô ta xinh hay xấu, lành hay ác, tuổi tác ít hay nhiều, làm nghề ngồi một chỗ hay chạy loạn ngoài đường, là mối tình thứ mấy của y… chuyện ấy chẳng có gì đáng nói. Điều đáng nói là y có tình duyên mới đúng vào lúc cả nước đang rơi vào vòng xoáy điên cuồng của một cơn bão mạnh cấp 11, giật trên cấp 12: bão giá.
Trời hại y, con tim đang vui trở lại, lòng dạt dào muốn yêu, thì bão giá nổ ra. Hàng hóa gì cũng tăng giá, trừ hàng hóa sức lao động của y. Lẽ thường, với một người nghèo, chi tiêu sẽ dồn vào ăn là chính. Điều này đúng cho cả một gia đình lẫn một đất nước: Nhà nghèo tốn tiền ăn phần nhiều chứ mấy nhà tốn vào tiền mua vé xem phim với xem thi hoa hậu. Đứng trên tầm vĩ mô mà nói, khi đất nước nghèo, chi tiêu của dân chúng đổ hầu hết vào ăn uống, còn chuyện làm đẹp, giải trí, giáo dục, nâng cao đời sống tinh thần… phải để sau, cứ theo thứ tự ấy mà ưu tiên.
Y cũng thế. Dạo trước bão giá, sau khi bán hàng hóa sức lao động của mình, y có thể dùng tiền ấy để ăn uống, tậu thiết bị cho con laptop cưng, mua giày, cắt tóc, mua sách báo truyện đọc cho dễ ngủ mỗi đêm. Từ khi bão giá nổ ra, y chẳng còn mua được gì, suốt ngày chỉ thấy lo ăn. Đã thế lại đèo bòng thêm một cô người yêu đúng vào lúc này, quả là trong cái may có cái rủi.
Chẳng hiểu người khác yêu đương thế nào chứ với y, mối tình nào cũng làm y lõm về tài chính. Y quan niệm: làm thằng đàn ông đi ăn uống với phụ nữ dứt khoát là phải trả tiền. “Bất khả tri” thì được chứ “bất khả chi” là một điều không thể chấp nhận. (Chính cái ý nghĩ nặng nề ấy giết chết y, chứ thật ra cô người yêu kể cũng thuộc dạng biết điều, cô ta muốn chung lưng chia sẻ tiền ăn uống với tình nhân lắm. Khổ là cứ mỗi khi cô ta toan rút ví thì đều bị y lấy cái lưng to cồ cộ chặn lại, đứng chắn giữa cô ta và người bán hàng).
Mà giá cái gì cũng tăng chóng mặt, giời ơi. Xưa một ly trà Lipton có 5.000 đồng mà bây giờ lên 12.000. Xưa vé xem phim Vincom có 55.000 đồng/ người, giờ vọt lên 70.000 đồng, thêm tiền vé gửi xe bị tương lên 10.000. Mỗi lần giành trả tiền với người yêu, y cố lấy vẻ mặt hào hứng hoặc tệ nhất cũng là lạnh lùng bình thản. Nhưng trong lòng y xót, y đau, và nhất là y buồn, y nhớ. Vốn người hoài cổ, y nhớ tiếc cái thời cấp ba của y, với mối tình đầu. Đó là đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Thời ấy hình như cái gì cũng ngon hơn, rẻ hơn. Phở 3.000 đồng/bát. Bánh mì patê 2.000 đồng/cái, bánh mì không nhân 1.000 đồng. Với 10.000 đồng thầy u chu cấp, y và tình nhân đầu tiên có thể lang thang đi chơi khắp Hà Nội cả ngày mà vẫn no đủ. Thời ấy nay còn đâu?
Rồi miên man nhớ cái thời ấy, y lại nhớ đến mối tình đầu của y, thầm chép miệng: “Sao hồi xưa mình trong sáng thế nhỉ?...”. Cô người yêu đi bên cạnh chẳng hiểu quái gì, nhìn y âu yếm. Y cũng nhìn cô âu yếm không kém.
Các nhà kinh tế phân tích tình hình sao đó, y không nhớ, nhưng đại ý là thế này: “Thị trường nó lạ lắm nhé, nó tự điều chỉnh được hết. Khi nào lạm phát xảy ra thì dân chúng sẽ tự biết cách thắt lưng buộc bụng, giảm chi tiêu cá nhân đi, rồi cũng đâu vào đấy cả. Mà nói thật ra lạm phát đây là do dân ta ăn tiêu xa hoa quá đấy, bây giờ phải nhịn miệng đi là đúng rồi, còn cãi gì?”.
Y vốn dân kỹ thuật, chẳng hiểu gì về kinh tế - cái môn khoa học mà y không biết là nên xếp vào xã hội hay tự nhiên, văn hay toán nữa. Nhưng y nghe mang máng thế thì cũng tự hiểu: Phải biết tiết kiệm chi tiêu. Trong lúc hàng hóa sức lao động của y không lên giá, mà lại vẫn phải đảm bảo “khả chi” mỗi lần đi ăn đi uống với bồ, thì y chỉ còn cách nhịn ăn tiêu ở những chỗ khác. Giống như giáo Thứ của cụ Nam Cao khi xưa, nay y tự bảo y rằng: Y sẽ bỏ cái lệ 10.000 phở mỗi sáng đi. Y sẽ tự cắt tóc để khỏi phải ra hàng. Y sẽ ít đú với bọn thằng X thằng Z để tránh những lúc hứng ăn hàng hay uống nước (trà) chanh. Tất cả những món tiền ấy, góp lại chẳng đủ cho y và bạn gái đi chơi, uống nước cả tuần đó ư?
5/6/2008
* * *
Cập nhật lại số liệu, gần hai năm sau ngày tôi viết bài “nhảm văn” ở trên, lại cũng xoay quanh chuyện ăn uống: Trà Lipton 5000 đồng/cốc (ly) trước khủng hoảng kinh tế, vọt lên 12.000 đồng năm 2008, và giờ đã tăng tới 30.000 đồng là mức trung bình. Nếu bỏ lệ phở sáng thì nhân vật được gọi là “y” trong bài sẽ tiết kiệm không phải 10.000 đồng/ngày nữa mà là 30.000 đồng.
Dân Việt Nam ngày trước có một nét văn hóa rất đẹp là khi đi ăn nhậu, bao giờ cũng đánh nhau để trả tiền. Ba năm trở lại đây trong cơn bĩ cực lạm phát, tôi để ý thấy truyền thống đó đã dịch chuyển thành khuynh hướng “campuchia” – chúng ta cùng chia sẻ tổng thiệt hại. Đơn giản vì không ai, với thu nhập từ mức trung lưu trở xuống, còn đủ sức làm hào kiệt nữa. Thế là một nét văn hóa dân tộc đang có nguy cơ mất đi. Chà…
I dare not describe myself as a patriot. I just believe I am psychologically attached to my country.
Wednesday, 23 February 2011
Sunday, 13 February 2011
"Thời thanh niên sôi nổi"
Một cuộc khảo sát do báo Sinh Viên Việt Nam thực hiện năm ngoái (2010) với hơn 500 sinh viên một số trường đại học và cao đẳng tại TP.HCM cho thấy: 45,6% bạn trẻ hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống hiện tại; 27,1% bạn trẻ không hài lòng với cuộc sống hiện tại; 27,3% bạn trẻ đang băn khoăn và chưa nghĩ về hạnh phúc ở hiện tại nhưng hơn một nửa trong số 27,3% ấy tin rằng mình sẽ hạnh phúc trong tương lai.
Cũng theo khảo sát trên, các “kiểu” hạnh phúc được các bạn xếp theo thứ tự ưu tiên như sau: 39% bạn trẻ mong muốn kiếm được việc làm phù hợp với năng lực và sở thích, có cơ hội thăng tiến, kiếm được nhiều tiền để thỏa mãn ước mơ học tập và du lịch, chăm sóc chu cấp cho người thân; 33% quan tâm đến sức khỏe; 17% quan tâm đến tình yêu; 11% muốn trang bị đầy đủ các vật dụng hiện đại như xe máy, điện thoại di động, laptop, máy ảnh…
Bạn trẻ, bạn nghĩ sao khi đọc những thông tin này? Về phần mình, tôi nghĩ nếu có một tỷ lệ hơn 40% sinh viên Việt Nam thực sự hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống hiện tại thì đó là điều tốt, rất nên mừng cho các bạn ấy. Tuy thế, trong trường hợp ấy tôi sẽ hơi ngạc nhiên. Tôi nhớ tới câu nói của nhân vật Khảm trong truyện ngắn nổi tiếng “Không có vua” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “Người xưa được phong thần dễ nhỉ?”, và tôi cũng muốn hỏi với đúng thái độ ấy: “Người trẻ bây giờ hạnh phúc dễ nhỉ?”.
Nói như vậy dĩ nhiên không phải vì tôi muốn sinh viên Việt Nam phải bất hạnh, cuộc đời phải thăng trầm, sóng gió. Ai dám mong điều đó chứ? Nhưng, đôi khi tôi cứ nghĩ, sao các bạn trẻ lại phải tự giới hạn diện quan tâm và mức độ đa dạng của cuộc sống của mình thế nhỉ? Một doanh nhân, luật gia Việt Nam – ông Nguyễn Trần Bạt – từng nói thế này: “Đặt những vấn đề của đất nước vào trong đời sống tinh thần của mình là cả một công nghệ để nâng mình lên một tầm khác. Tôi thấy rất nhiều thanh niên ngồi với nhau là nói chuyện bia rượu, hoa hậu, bóng đá… Tôi ít thấy ai nói chuyện đất nước, nói chuyện rừng ngập mặn, hiện tượng nóng lên của trái đất. Tôi cầu mong cho thế hệ trẻ bây giờ có nhiều người học được những phẩm chất như vậy, đem nhốt vào trong đời sống tinh thần của mình những vấn đề sống còn của đất nước mà suy nghĩ”.
Nhưng mà thôi, đầu xuân năm mới, chẳng nhẽ lại chúc nhau “một năm ly kỳ, gay cấn” như nhà văn Thảo Hảo từng gợi ý trong tiểu phẩm “Tôi muốn đời tôi màu gì”. Khi viết những dòng này, tôi cũng không có mảy may ý nghĩ rủ rê, hô hào, kích động bạn thanh niên xuống đường biểu tình chống tăng học phí. Tôi chỉ muốn nói là, các bạn trẻ hãy thử mở rộng diện quan tâm của mình đến khoa học, đến nghệ thuật, đến chính trị, đến quản lý và lãnh đạo xem sao. “Thử một lần cho biết”, các bạn sẽ thấy cuộc đời có thêm màu sắc, rất đáng sống.
Thay cho mọi lời chúc mừng năm mới, tôi viết bài dưới đây về một nhân vật đã, đang, và sẽ còn là thần tượng của rất nhiều bạn trẻ Việt Nam, xin coi đó như một món quà tặng các bạn đầu xuân 2011 này.
* * *
"THỜI THANH NIÊN SÔI NỔI" CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
Năm 2011 này, vị tướng thân yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam tròn 100 tuổi. Đã có quá nhiều sách báo cả trong và ngoài nước viết về ông – nhà quân sự tài ba, người xây dựng và dẫn dắt quân đội Việt Nam, vị tướng huyền thoại của chiến dịch Điện Biện Phủ lừng danh toàn cầu… Nhưng không mấy ai biết về tuổi trẻ, về thời học sinh – sinh viên của tướng Giáp. Và đó cũng là những “bí ẩn” hấp dẫn mà rất nhiều người muốn tìm hiểu.
Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911, trong một gia đình nhà nho ở làng An Xá, nay thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha ông dạy học, bốc thuốc, mẹ làm ruộng. Viết về gia cảnh họ Võ ngày ấy, một nhà sử học người Úc, TS. Robert J. O’Neill, ghi lại trong cuốn “Tướng Giáp – chính trị gia và chiến lược gia” (1969) (1) rằng Võ Nguyên Giáp “sinh trưởng trong một gia đình có thu nhập đủ để ông có thể học hành tới nơi tới chốn, nhưng không dư dật tới mức tạo cho ông một cách tiếp cận truyền thống về đường công danh”.
Cũng phải hiểu rằng, trong hoàn cảnh thời ấy, “thu nhập đủ để ông có thể học hành tới nơi tới chốn” nghĩa là đảm bảo cho chú bé Giáp không phải là một đứa trẻ thất học, nhưng việc theo được hay không hoàn toàn do năng lực của Giáp quyết định. Mà nhà cũng chỉ đủ tiền cho hai anh em trai Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho ăn học thôi, các chị em gái không được ưu tiên.
Từ bé, Võ Nguyên Giáp đã chăm chỉ, hiếu học. Người anh em đồng hao của tướng Giáp sau này là Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại rằng cậu Giáp học chăm và rất giỏi, “hai năm học ở trường tiểu học Đồng Hới, cậu luôn đứng đầu lớp và vào kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu tỉnh. Thời ấy, việc đỗ đầu tỉnh có tiếng tăm lắm. Gia đình hoan hỉ. Cậu về làng được quý trọng”. (2)
Tính hiếu học ấy được hình thành từ tấm bé và sẽ mãi là một phẩm chất nổi bật ở Đại tướng. Một người thân của tướng Giáp cho biết, Võ Nguyên Giáp là một trí thức suốt đời tìm hiểu, suy nghĩ, học hỏi, “dù là tuổi hai mươi, hay là khi tóc bạc”. Ông đọc sách rất nhiều, luôn chịu khó tiếp xúc và lắng nghe, với một sức thu nhận bằng năm bằng mười người khác, đến mức trong giới nghiên cứu lịch sử quân sự phương Tây có chuyên gia đánh giá: “Tướng Giáp là cả một văn phòng”.
Trong nhà giam thực dân.
Ảnh tư liệu, không rõ nguồn.
Ảnh tư liệu, không rõ nguồn.
Tuổi 20 nồng nàn nhiệt huyết
Mùa hè năm 1925, Võ Nguyên Giáp thi đỗ vào trường Quốc học Huế. Cậu đỗ thứ nhì, loại khá. Nhập học, tháng nào cậu cũng đứng đầu lớp, có tên hàng đầu trên bảng danh dự, được cấp học bổng. Và không phải là một cậu thiếu niên học giỏi nhưng lúc nào cũng chỉ cắm đầu vào sách vở mà thờ ơ với thế sự: Ngoài việc học, Võ Nguyên Giáp sớm có sự quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội, đến đất nước thuở ấy đang trong cảnh nô lệ. 14-15 tuổi, cậu đã tìm gặp nhà chí sĩ Phan Bội Châu để hàng tuần nghe cụ nói chuyện. “Biệt nhãn” của cụ Phan cũng đã sớm nhận ra tinh thần cách mạng hay một thiên tư nào đó tiềm ẩn trong con người Võ Nguyên Giáp. Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại, hồi đó, “anh Giáp được cụ Phan chú ý và rất thương. Cụ có mấy chục bộ sách cổ kim, thấy anh Giáp hăng hái, nhiệt tình và ham học, cụ bảo: “Khi nào tôi mất, tủ sách này để lại cho cậu Giáp””. TS sử học Robert J. O’Neill cho rằng: “Khi Giáp còn đi học, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đã được hình thành một cách có sức thuyết phục và đầy cảm hứng bởi cụ Phan Bội Châu”. Nhưng sự thực có lẽ còn hơn thế: Sáng dạ, tinh thần ham hiểu biết, chịu khó học hỏi, mối quan tâm đến quốc gia, dân tộc, tất cả những phẩm chất ấy cộng thêm những tâm sự của nhà cách mạng già Bến Ngự đã hun đúc nên ở Võ Nguyên Giáp một năng lực chính trị vượt trước tuổi, trước đa số các bạn thanh niên cùng thế hệ.
Tuổi 20 của Võ Nguyên Giáp, như Trung tướng Phạm Hồng Cư đã viết, là một thời kỳ sôi nổi, làm việc cật lực: “Làm nhiều việc cùng một lúc: vừa học thi, vừa đi dạy, vừa viết báo, vừa hoạt động cách mạng. Là chiến sĩ cách mạng, là thầy giáo dạy sử, là nhà báo, là sinh viên…” (3). Nếu chỉ là một chàng thanh niên thông minh, học giỏi, nhưng thờ ơ với “chuyện chính trị”, Võ Nguyên Giáp hẳn không bao giờ làm việc hết mình, sống hết mình để có một tuổi trẻ như thế, và nhiều khả năng là chúng ta sẽ chỉ có một “thầy ký, thầy thông, thầy cãi” vô danh thay vì một vị tướng tài ba, một nhà chính trị chiến lược như Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Năm 1927, Võ Nguyên Giáp viết bài báo đầu tiên, bằng tiếng Pháp: “À bas le tyranneau de Quoc hoc!” (Đả đảo tên tiểu bạo chúa trường Quốc học!), gửi đăng ở tờ L’Annam của luật sư Phan Văn Trường tại Sài Gòn. Bài báo tố cáo mạnh mẽ nền giáo dục ngu dân của những kẻ cai trị. Sau đó, anh tổ chức một phong trào bãi khóa để phản đối việc nhà trường đàn áp học sinh, đuổi học Nguyễn Chí Diểu, cấm học sinh đọc sách báo yêu nước v.v. Với vai trò người cầm đầu, anh bị đuổi học. Nhưng không gì có thể dập tắt khát vọng học tập, đấu tranh, làm cách mạng giải phóng trong lòng người thanh niên yêu nước. Cũng Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại, những ngày ấy, anh Giáp vùi đầu vào tự đọc, tự học, lên một kế hoạch học tập rất nghiêm. Anh đọc đi đọc lại, thuộc lòng từ đầu chí cuối cuốn kịch thơ Andromaque của Racine, Le Cid của Corneille. Anh tập làm văn theo cuốn Stylitstique (Tu từ học). Anh liên lạc để tự học theo một trường giáo dục phổ cập bên Pháp... Cũng thời gian này, anh bắt đầu làm quen với chủ nghĩa Marx. Rồi anh gia nhập đảng Tân Việt, một đảng mà theo anh là có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa rõ rệt, hướng tới sứ mệnh làm cách mạng quốc gia và cách mạng thế giới. Ở Tân Việt, Võ Nguyên Giáp làm công tác tuyên huấn, viết tài liệu tuyên truyền cách mạng. Từ năm 1928, anh kiêm thêm vai trò biên tập viên của Tiếng Dân, tờ báo của cụ Huỳnh Thúc Kháng.
Song song với làm cách mạng, anh Giáp vẫn tự học Tú tài, và năm 1933, anh đỗ Tú tài phần thứ nhất, hạng ưu, với tư cách thí sinh tự do. Niên khóa 1933-1934, anh học chuyên khoa triết tại trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội, năm 1934, đỗ Tú tài toàn phần. Đây là một bước đệm để anh tiến tới trở thành sinh viên của Đại học Luật khoa Đông Dương.
Chăm chỉ, ham mê, và xuất sắc
Những người thầy cũng như bạn học cũ của Võ Nguyên Giáp đã dành nhiều lời tốt đẹp để nói về anh Giáp. GS, NGND Nguyễn Thúc Hào, bạn Võ Nguyên Giáp ở trường Quốc học, kể: “Trong kỳ thi vào Quốc học, tôi đỗ đầu còn anh Võ Nguyên Giáp đỗ thứ hai. Tôi còn nhớ anh Giáp trắng trẻo như con gái, tuy đỗ thứ hai, nhưng suốt cả năm học đệ nhất niên, tháng nào anh cũng được làm “major”, nghĩa là đầu lớp, mà tôi thì luôn luôn đứng thứ hai... Anh Giáp hơn tôi một tuổi, nhưng đã có những suy nghĩ của người lớn, còn tôi lúc ấy chỉ là một cậu bé chăm học và ngoan, dễ bảo thế thôi. Các giáo sư Việt cũng như Pháp đều tỏ vẻ bằng lòng đối với hai chúng tôi, nhất là đối với anh Giáp, học giỏi”.
GS Marcel Ner, từng dạy triết ở trường Albert Sarraut, rất quý mến Giáp. Có bài của trò Giáp được GS chấm 17 điểm, vượt hẳn người thứ nhì chỉ được 14 điểm. Ông từng kể lại với ký giả Pháp gốc Việt Gérard Le Quang – tác giả của cuốn Giáp hay chiến tranh nhân dân (1973): “Giáp là một cậu học trò nghiêm chỉnh và say mê việc học hành. Đã xảy ra một chuyện lạ, khiến chúng tôi xích lại gần nhau. Khi thanh tra đang dự lớp tôi, tôi hỏi bài anh Giáp. Anh đứng dậy, nhưng chưa nói được câu nào, đã ngất đi … Trước đó, Giáp từng bị kết án, bị cầm tù, vì đã cùng với một số bạn học quyên góp từng xu cứu tế cho những nạn nhân người An Nam tham gia nổi dậy ở xứ Nghệ. Nay Giáp, cho dù ngập vào việc học hành, vẫn thức rất khuya để chữa bài (cho học trò con nhà khá giả) để phụ thêm vào khoản trả học phí…”. (4)
Vừa học đại học, vừa dạy thêm, vừa viết báo chính trị và làm cách mạng, Võ Nguyên Giáp hầu như không còn thời gian rảnh rỗi. Và không phải không có lúc anh kiệt sức, chuệch choạc. Gérard Le Quang viết:
“Ai cũng biết rằng sự nghiệp chính trị và đường học vấn không phải lúc nào cũng song hành, nhất là khi anh lại còn phải kiếm sống nhờ dạy học. Đây hẳn là lý do khiến Giáp đã phải đúp năm thứ hai, do không qua được kỳ thi tháng 10”.
Tuy thế, tinh thần ham mê học tập, năng lực tổ chức và khả năng làm việc gấp đôi, ba người thường, khiến Võ Nguyên Giáp luôn là một sinh viên nổi bật. Theo Gérard Le Quang, “Giáp học khá, đặc biệt xuất sắc ở những môn mà ông say mê, và vào những lúc mà, sau các hoạt động chính trị, vẫn lại thời gian dành cho học tập. Giáo sư Grégoire Kherian dạy kinh tế chính trị và luật vẫn còn nhớ về Giáp như một học trò ưu tú: “Vào năm thứ hai (1935), Giáp đã làm một luận văn xuất sắc về cán cân thanh toán Đông Dương. Tôi đã cho anh ấy tới 17 điểm với nhận xét sau đây: “Một chuyên luận xuất sắc về một đề tài ít được biết đến. Bài có cách trình bày sáng sủa, có phương pháp, và có cá tính”. Bài được giải nhất trong cuộc thi Kinh tế chính trị học cuối năm đó”.
GS luật Gaetan Pirou, quan chức cấp cao của Pháp sang thanh tra Đông Dương về giáo dục, đã chú ý đến Giáp và đề xuất việc đưa anh sang Paris du học, “ra khỏi môi trường thuộc địa”. Sau một ngày suy nghĩ, Giáp từ chối. Le Quang cho rằng đây chính là thời điểm Võ Nguyên Giáp quyết chí lựa chọn con đường cách mạng.
Lời kết
Nhiều năm sau trận Điện Biên Phủ lẫy lừng, giới nghiên cứu phương Tây vẫn đặt câu hỏi, điều gì làm nên thiên tài quân sự cùng tầm nhìn chiến lược của nhà chính trị Võ Nguyên Giáp?
Họ, cũng như chúng ta, chẳng thể nào đưa ra câu trả lời chính xác cuối cùng. Nhưng từ những điều ít ỏi được biết về “thời thanh niên sôi nổi” của Đại tướng, chúng ta có thể thấy rằng, thiên tư của một người trẻ tuổi chẳng là gì khác ngoài tinh thần hiếu học, ý chí nỗ lực vươn lên không ngừng, hăng hái đấu tranh vì một cuộc sống tốt đẹp hơn không phải chỉ cho chính mình mà cho toàn thể dân tộc, cùng đất nước.
---
Chú thích:
[1] “General Giap - Politician and Strategist” do NXB Cassel Australia xuất bản năm 1969.
[2] “Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ” – Phạm Hồng Cư, NXB Thanh Niên, 2004.
[3] “Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ” – Phạm Hồng Cư, NXB Thanh Niên, 2004
[4] “Giap ou la guerre du peuple”, NXB Denoël, Paris, 1973.
Subscribe to:
Posts (Atom)