Wednesday, 25 July 2012

Chết vì tay Trung Quốc: “Sát thủ” hacker đỏ

Trung Quốc đã xây dựng được một đội “hacker đỏ” chuyên nghiệp, mối đe dọa có sức phá hoại tương đương một mạng lưới điệp viên dày đặc, mà xét cho cùng có khi lại hiệu quả hơn sử dụng điệp viên. Bởi lẽ thay vì phải chi hàng tỉ đô la cho việc đào tạo gián điệp, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật cao thì hoàn toàn có thể làm mọi thứ chỉ qua mạng.

Hai tác giả Peter Navarro và Greg Autry của Death by China đưa ra một loạt lời buộc tội: “Những “tin tặc đỏ” đã xâm nhập vào mạng của NASA, Lầu Năm Góc, Ngân hàng Thế giới; tấn công Phòng Công nghiệp và An ninh trực thuộc Bộ Thương mại Mỹ dữ dội đến mức cơ quan này phải phá bỏ hàng trăm máy tính; xóa sạch mọi ổ cứng của dự án Máy bay chiến đấu Lockheed Martin F-35; và gần như ném bom rải thảm hệ thống kiểm soát không lưu của Không lực Hoa Kỳ”.

Trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ năm 2008, hacker đỏ của Bắc Kinh còn đột nhập vào máy chủ email của cả phe Obama lẫn phe McCain và Nhà Trắng. “Tại một trong những sự vụ trơ trẽn nhất trong lễ tân ngoại giao, máy tính của bộ trưởng Thương mại Mỹ và một số nhân viên đã bị đánh cắp, bị cài đầy phần mềm gián điệp, nhân một chuyến công du của bộ trưởng tới Bắc Kinh”.

Cuốn sách đưa ra những lời buộc tội có thể khiến người đọc… ù tai. Chẳng hạn, nói về một chiêu thức hành nghề của tin tặc thời hiện đại: Thời xưa, ngành tình báo phải sử dụng tới mỹ nhân kế như Mata Hari để moi thông tin từ “đối tác”. Thời nay, “ngoài những gái điếm và các phòng khách sạn đầy “bọ” (thiết bị nghe trộm - PV) ở Thượng Hải, các điệp viên Trung Quốc còn tặng cho con mồi của họ thẻ nhớ đầy virus, thậm chí cả camera kỹ thuật số. Theo Cục Tình báo MI5 của Anh, một khi được gắn vào máy tính của nạn nhân, những thiết bị này sẽ cài đặt ngay phần mềm cho phép hacker giành quyền kiểm soát”.

Làm hacker cũng giống một ngôi sao nhạc rock

Death by China đưa ra một số lý giải, có lẽ khá đơn giản, về mục tiêu hành động của tin tặc Trung Quốc. Cuốn sách cho rằng hacker đỏ muốn làm gián đoạn hoạt động của các trang web ở phương Tây, bằng cách đánh sập hoặc tấn công từ chối dịch vụ. Ngoài ý muốn phá hoại, hacker đỏ cũng nhắm đến việc ăn cắp những thông tin có giá trị như số thẻ tín dụng, thông tin cá nhân hoặc hơn thế: Bí quyết công nghệ, bí mật thương mại, hồ sơ mời thầu và dự thầu, tình hình tài chính của một công ty nào đó, rồi thông tin về vũ khí, quân sự.

Nhưng đó mới là bề nổi, tức là mục tiêu mà các hacker hướng đến. Còn bản chất của việc họ hành động như thế lại là chuyện khác. Navarro và Autry trích dẫn một trao đổi trên diễn đàn hội thảo về an ninh thông tin của hacker Trung Quốc. Hỏi: “Khi nào chúng ta tiến hành hack?”. Đáp: “Nếu đó là vấn đề có ảnh hưởng tới chúng ta trên bình diện quốc tế, thì khi ấy chúng ta sẽ huy động các thành viên tổ chức tấn công”.

Câu trả lời hé lộ một phần nguyên nhân của hiện tượng tin tặc: Đó là tinh thần dân tộc bị đẩy tới mức cực đoan ở một bộ phận người dân Trung Hoa. Death by China trích lời một chuyên gia về tin tặc Trung Quốc, ông Scott Henderson, nói rằng ở nước này, làm hacker “cũng giống như làm ngôi sao nhạc rock”, đó là “một sự nghiệp mà có đến một phần ba trẻ em tuổi đi học ở Trung Quốc mơ ước”.

Có bàn tay chính quyền phía sau?

Phần gây tranh cãi nhất của chương này có lẽ nằm ở những khẳng định rằng chính quyền Trung Quốc đứng sau các chiến dịch tấn công trên mạng. Lập luận của hai tác giả cuốn sách là: Không thể có chuyện hacker hoạt động mà không có bàn tay dẫn dắt của Bắc Kinh, nhất là khi chính quyền Trung Quốc vốn có chế độ kiểm soát Internet ngặt nghèo nhất thế giới. Không hacker nào có thể thoát khỏi tay chính quyền một khi cơ quan an ninh và cảnh sát đã muốn bắt và xử lý. Ví dụ một hacker ở tỉnh Hồ Bắc can tội đột nhập vào website của cơ quan nhà nước và thay ảnh chân dung một quan chức bằng ảnh cô gái mặc bikini. Người này nhanh chóng bị bắt và kết án 1,5 năm tù. Vụ việc đã được đăng tải trên tờ Nhân Dân Nhật Báo.

Trong khi đó thì rất nhiều vụ tin tặc nghiêm trọng khác lại không được điều tra. Navarro và Autry dẫn ra một loạt trường hợp hacker Trung Quốc tấn công mạng nước ngoài và hành động của họ hoàn toàn có thể làm phương hại quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và nước nạn nhân, vậy mà họ vẫn không bị trừng trị. Ví dụ như khi Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi đi thăm ngôi đền chiến tranh Yasukuni, hacker Trung Quốc đã xóa website của ngôi đền này, ghi đè lên đó hàng chữ: “Gái đái lên toilet Yasukuni”. Còn khi Liên hoan Phim Melbourne ở Úc chiếu phim tài liệu về một nhà lãnh đạo người Duy Ngô Nhĩ, hacker Trung Quốc đánh phá website của liên hoan phim dữ dội đến mức ban tổ chức không bán được vé qua mạng. Một số nhóm tin tặc như Liên đoàn Hắc khách Trung Quốc (China Hacker Union) được cho tồn tại và hoạt động công khai, thậm chí mở cả văn phòng.

Bạn đọc có thể thấy lập luận buộc tội của Death by China chưa đủ thuyết phục, vì dù sao đi nữa, “án tại hồ sơ” song cuốn sách lại không chỉ ra được một bằng chứng mạnh mẽ nào cho thấy mối liên hệ giữa chính quyền và hacker Trung Quốc, chẳng hạn một chủ trương bằng văn bản chính sách…

Tuy vậy, việc cảnh giác với những tin tặc bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan vẫn luôn là điều cần thiết, nhất là khi Việt Nam có nguy cơ là đích ngắm của tội phạm mạng: Năm 2010, một báo cáo của Công ty An ninh mạng McAfee cho thấy 58% tên miền cấp 1 .vn đã trở thành mục tiêu của hacker. Trong khoảng hai ngày 8 và 9-6-2011, hàng loạt website ở Việt Nam đã bị hacker Trung Quốc đánh phá, trong đó có các trang web của Trung tâm Dữ liệu Hoàng Sa (HSO), Anh Ba Sàm, và Trung tâm biên phiên dịch quốc gia trực thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tháng 8-2011, McAfee xác định “cơ quan chính phủ Việt Nam nằm trong số 72 tổ chức chính phủ trên thế giới là mục tiêu của đợt tấn công lớn nhất mà tin tặc tiến hành để lấy dữ liệu mạng, được McAfee phát hiện”.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao khi đó, bà Nguyễn Phương Nga, cho biết: “Chúng tôi rất quan tâm đến những thông tin mà McAfee đưa ra. (…) Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực hợp tác cùng cộng đồng quốc tế phòng, chống các hành vi phá hoại an ninh mạng”.

* * *

Tháng 5-1999, trong chiến dịch NATO tấn công Nam Tư, máy bay Mỹ ném bom trúng Đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade, làm chết ba công dân Trung Hoa. Hàng ngàn email từ Trung Quốc đã “dội bom” làm sập website của Nhà Trắng. Tin tặc cũng chiếm website của Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh, chèn lên trang chủ dòng chữ “đả đảo bọn man rợ”. Tháng 3-2008, hãng tin CNN (Mỹ) đưa tin về bạo loạn ở Tây Tạng. Ngay sau đó website của CNN bị phá và ghi đè dòng chữ “Tây Tạng đã, đang và sẽ luôn luôn là một phần của Trung Quốc”. (Wikipedia)


Wednesday, 18 July 2012

Chết vì tay Trung Quốc: Chủ nghĩa thực dân Đại Hán

Cuốn sách Death by China (Chết vì tay Trung Quốc) dành riêng một chương để nói về một đại chiến lược của Trung Quốc nhằm khai thác tài nguyên của các nước nhỏ, xuất khẩu nhân công ồ ạt sang các nước này và tiến tới biến họ thành “thuộc địa kiểu mới”.

Các tác giả cho rằng đây là một thứ chủ nghĩa thực dân mới, mạnh mẽ và quyết liệt hơn chủ nghĩa thực dân cũ của phương Tây nhiều.Chiến lược đó được gọi (không rõ khởi nguồn từ ai và vào lúc nào) bằng cái tên “Thả mồi và lật lọng” (bait and switch).

Thả mồi và lật lọng

Peter Navarro và Greg Autry viết: Chiến lược thả mồi và lật lọng của Trung Quốc luôn bắt đầu theo cùng một cách: Chủ tịch, hoặc thủ tướng, hoặc bộ trưởng thương mại nước này đến thăm thủ đô của một nước nào đó rất xa, như Djibouti, Niger hay Somalia chẳng hạn. Ông ta đến đó và vẫy vẫy một cuốn sổ séc lớn, chào mời hứa hẹn những khoản vay hào phóng, lãi suất thấp, để xây dựng cơ sở hạ tầng dân sự hoặc quân sự của nước sở tại - bất kể đó là đường sá, cảng biển, hay quốc lộ, có ích lợi, hay một cung điện xa hoa lãng phí cho nhà độc tài đang cầm quyền, hay là súng AK-47s để kìm giữ những người dân cứng đầu cứng cổ dưới gót giày đàn áp.

Và để đổi lấy sự hào phóng của Trung Quốc, tất cả những gì đất nước chớm thuộc địa kia phải làm gồm hai việc. Thứ nhất, họ phải trao quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên cho Trung Quốc để đổi lấy khoản vay. Từ đó, Trung Quốc phong tỏa luôn nguồn tài nguyên của đất nước, phục vụ mục đích sử dụng riêng. Thứ hai, họ phải mở cửa thị trường cho tất cả những thành phẩm mà các nhà máy, công xưởng ở Trung Quốc sẽ sản xuất bằng nguyên vật liệu thô mà xứ thuộc địa kia cung cấp. Từ đó Trung Quốc phong tỏa luôn một thị trường mới nổi.

Theo hai tác giả, chiến lược “Thả mồi và lật lọng” này đang được Trung Quốc tiến hành trên toàn thế giới. Ví dụ, CHDC Congo đã “tặng” cho Trung Quốc kho tài nguyên đồng đỏ trị giá hàng tỉ đô la để nhận về dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Ghana đổi ca cao lấy cơ sở hạ tầng. Nigeria đổi khí đốt lấy nhà máy điện, v.v. Song đáng tiếc là chẳng nước nào trong số này đạt được mục đích thịnh vượng.

Khát tài nguyên

Như nhiều tài liệu khác bàn về chiến lược của Trung Quốc “thu mua” tài nguyên trên toàn cầu, Death by China cũng cho rằng một trong các nguyên nhân dẫn đến việc Trung Quốc kiếm tìm tài nguyên khắp nơi là do nhu cầu tiêu thụ khổng lồ của họ. Cuốn sách cho biết Trung Quốc là nơi tiêu thụ: một nửa lượng xi măng của thế giới, gần nửa lượng thép, một phần ba lượng đồng đỏ, một phần tư lượng nhôm, khối lượng cực lớn crôm, côban, liti, kẽm, gỗ v.v.

Tuy nhiên, vấn đề là không phải nước nào khát tài nguyên cũng đều hành xử như vậy. Hai tác giả nhận xét rằng, trong khi phần lớn các quốc gia trên thế giới đều xuất nhập khẩu tài nguyên thông qua hệ thống giá cả trên thị trường quốc tế, tức là đều dựa vào thị trường tự do để phân phối (hai ông gọi đây là “chủ nghĩa tư bản hợp tác”), thì Bắc Kinh thực thi “chủ nghĩa tư bản thực dân” trên khắp châu Phi, châu Mỹ Latin và nhiều nước châu Á. Death by China đưa ra một định nghĩa về chủ nghĩa thực dân Đại Hán này: “Nắm quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên - tài sản thật sự của quốc gia thuộc địa. Xuất khẩu tài nguyên đó về Trung Quốc, thay vì để cho nước sở tại sử dụng tài nguyên ấy để phát triển kinh tế. Sau đó tái xuất nguyên vật liệu thô ấy trở lại nước sở tại nhưng lần này dưới hình thức thành phẩm, hàng hóa. Toàn bộ quá trình tạo ra công ăn việc làm ở Trung Hoa lục địa, gia tăng lợi nhuận cho các công ty của Trung Hoa lục địa và kéo dài thêm dòng người thất nghiệp ở nước thuộc địa. Ở các nước thuộc địa kiểu mới đó, chỉ còn lại những công việc nguy hiểm nhất, độc hại nhất, nghèo nhất, trong những ngành công nghiệp bóc lột, còn những việc làm có giá trị cao thì đã chuyển hết sang Quảng Châu, Thành Đô hay Thượng Hải”.

“Biển người” phủ khắp lục địa Đen

Một khía cạnh khác của “chủ nghĩa thực dân Đại Hán” là xuất khẩu nhân công. Một dân biểu Ai Cập, ông Mustafa al-Gindi, từng nói: “Sự thực là đến châu Phi, Trung Quốc không chỉ đem theo kỹ sư và nhà khoa học. Họ đến đây mang theo rất nhiều nông dân. Đó là chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Không còn đạo đức, luân lý, giá trị gì nữa cả”.

Theo Death by China, sau khi đã “thả mồi”, tức là cho nước thuộc địa vay tiền để xây dựng cơ sở hạ tầng, Trung Quốc sẽ “lật lọng” bằng nhiều hình thức, trong đó có việc xuất khẩu nhân công sang nước sở tại để tiến hành công trình xây dựng đó. Các tác giả trích dẫn một cuốn sách có tựa đề China Safari (Cuộc đi săn của người Trung Quốc), nói rằng: “Người Trung Quốc sẽ hút dầu và bơm dầu ấy vào những đường ống do Trung Quốc sản xuất và canh gác, đến một cảng biển do Trung Quốc xây. Tại đây, dầu được đưa vào các bồn của người Trung Quốc và chở về Trung Quốc. Nhân công Trung Quốc sẽ xây cầu đường, đê đập, buộc hàng chục ngàn dân sở tại phải di dời. Người Trung Quốc sẽ trồng trọt, chăn nuôi, để những người dân sở tại sẽ chỉ ăn đồ ăn Trung Quốc, rau cỏ Trung Quốc, với các nguyên vật liệu nhập khẩu từ Trung Quốc...”.

Thực ra, những “giai thoại”, “huyền thoại” về chủ nghĩa thực dân kiểu Trung Hoa đã được nhắc đến từ lâu. Tháng 6-2011, trong một cuộc trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên tùy viên quân sự Việt Nam tại Trung Quốc nửa đầu thập niên 1980, cũng nhận định: “Họ tiến hành một thứ chủ nghĩa bành trướng hiện đại, chủ nghĩa thực dân mới. Cả thế giới hiện nay không nước nào đi xâm lược, lấy đất của nước khác. Nói đúng hơn, họ có thể xâm chiếm nước khác bằng kinh tế, văn hóa, như Mỹ chẳng hạn nhưng không có nhu cầu lấy đất. Còn Trung Quốc thì vừa lấy đất vừa di dân để chiếm và giữ”, “Cứ nơi nào họ sang làm giúp ta thì họ rào lại, coi như lãnh địa của họ, không ai được vào nữa. Họ nhập hàng hóa, từ đồ ăn thức uống, bát đĩa tới cái... hố xí bệt đều là từ Trung Quốc, không dùng hàng Việt Nam”.

Nguyên do của tình trạng này được hai tác giả của Death by China lý giải: Bắc Kinh cần phải xuất khẩu một cách có hệ thống hàng triệu nhân công lao động sang “các nhà nước vệ tinh” ở châu Phi, châu Mỹ Latin, châu Á, để giảm áp lực của nạn “nhân mãn”.

Một cách thẳng thừng, Peter Navarro và Greg Autry so sánh việc Trung Quốc sử dụng chiến lược thực dân “Thả mồi và lật lọng” trên khắp thế giới cũng giống như việc thắt một thòng lọng quanh cổ tất cả các nền kinh tế, kể cả Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc. Hai ông cho rằng chiếc thòng lọng này sẽ siết lại nếu Mỹ (và các đồng minh, đối tác) không sớm hành động quyết liệt để ngăn chặn. Có lẽ vì tinh thần ấy mà cuốn Death by China mang cái tên “dữ dằn” là Chết vì tay Trung Quốc - Đối đầu với con rồng - Lời kêu gọi hành động toàn cầu.

* * *

Hiện nay, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai của châu Phi, sau Mỹ. Tính đến tháng 8-2007, có khoảng 750.000 công dân Trung Quốc ở lại sau khi đã hết thời gian làm việc tại châu Phi, hơn 700 công ty Trung Quốc làm ăn ở 49 nước châu Phi.

Trung Quốc gom nhặt tài nguyên thiên nhiên của châu Phi - dầu hỏa, khoáng sản quý - để nuôi nền kinh tế đang mở rộng, cũng như tìm kiếm thị trường mới cho các doanh nghiệp đang lớn của họ. Năm 2006, thương mại hai chiều tăng tới 50 tỉ USD. Không phải mọi giao dịch đều liên quan đến trao đổi tiền tệ trực tiếp: Năm 2007, chính phủ Trung Quốc và Congo đã đạt thỏa thuận, theo đó những công ty quốc doanh Trung Hoa sẽ tham gia những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho Congo, đổi lấy một lượng lớn nguyên vật liệu khai thác từ các mỏ đồng của Congo. (Wikipedia)



Thursday, 5 July 2012

Ngụy biện chồng lên ngụy biện

Trong vài ngày qua, trên cộng đồng Facebook có lan truyền một bài viết với nội dung chỉ trích việc phát động biểu tình là “lợi dụng lòng yêu nước”. Xét thấy bài viết phạm quá nhiều lỗi lập luận, tôi xin được dành entry sau đây để phân tích về sự ngụy biện, phi logic của nó.

Điều đầu tiên và thông điệp cuối cùng tôi muốn nói trong khuôn khổ entry này, là sự cần thiết phải tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt của công dân. Do vậy, mặc dù entry nhằm chỉ ra các lỗi ngụy biện của tác giả, nhưng tôi hết sức tôn trọng quyền của tác giả được bày tỏ ý kiến về các cuộc biểu tình ở Việt Nam. Cũng cần nói thêm, không phải không có những điều tôi đồng ý và chia sẻ quan điểm với tác giả, nhưng đó là chuyện nằm ngoài bài viết dưới đây.


* * *

“Thứ nhất, động thái khiêu khích vừa rồi của Trung Quốc nằm trong chuỗi các động thái với mưu đồ độc chiếm biển Đông và “nắn gân” các nước có tranh chấp rất tinh vi. Tuy nhiên, cách thể hiện sự khiêu khích của Trung Quốc chỉ là những lời tuyên bố. Theo thông lệ Quốc tế, hành xử của Việt Nam trước sự khiêu khích này không thể nào khác hơn ngoài những tuyên bố phản đối của các Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và Nhà nước ta đã thực hiện đúng với những gì cần làm”.

Tất nhiên là trong những sự biến vừa qua, (thật may mắn mà) sự khiêu khích của Trung Quốc (mới) chỉ là những lời tuyên bố. Và chúng ta cũng cần hiểu là, từ trước đến nay, ngay cả khi Trung Quốc có những hành động khác xâm hại đến lợi ích Việt Nam, mà vì một lý do nào đó mà truyền thông Việt Nam không đưa tin, thì chúng ta cũng đâu có biết. Sự thực rất có thể là nghiêm trọng hơn dư luận tưởng nhiều, và ngược lại, cũng có thể là nhẹ nhàng hơn nhiều – đến nỗi chúng ta rất khó có thể khẳng định “sự khiêu khích của Trung Quốc chỉ là những lời tuyên bố”. Khi không được cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch, mọi khẳng định về động thái của Nhà nước (dù là Việt Nam hay Trung Quốc) đều có thể là võ đoán.

Trên thực tế, Trung Quốc đã từng có những hành động thật sự xâm hại đến lợi ích của Việt Nam trên Biển Đông, chứ không dừng lại chỉ ở tuyên bố. Cắt cáp tàu Bình Minh 2, gây rối cáp tàu Viking 2, bắt giữ ngư dân Việt Nam… là các ví dụ rõ ràng.

Biểu tình là do người dân muốn thể hiện ý nguyện yêu nước của mình trước hiểm họa lãnh thổ bị xâm phạm. Ở đây chưa cần bàn là Nhà nước đã làm kịp thời tất cả những gì cần thiết về phía Nhà nước hay chưa, mà đơn thuần là một số người dân muốn thể hiện quan điểm phía mình. Hai chuyện này độc lập với nhau, và có thể thực hiện song song, không ai ngáng chân ai cả.


“Trung Quốc tuyên bố lập "thành phố Tam Sa" ở cấp vùng (Trung Quốc từng có ý định lập thành phố Tam Sa ở cấp huyện, nhưng sau đó hủy bỏ quyết định trắn trợn này) nhằm quản lý các quần đảo trên Biển Đông, ngay lập tức, lãnh đạo Khánh Hòa và Đà Nẵng lên tiếng phản đối Trung Quốc, khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không tách rời của Việt Nam. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng kịch liệt lên án việc Trung Quốc thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa"”.

Xin tác giả lưu ý: Trung Quốc là một quốc gia, tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” là tuyên bố của một chính quyền trung ương. Còn Khánh Hòa và Đà Nẵng là hai tỉnh của Việt Nam. Tuyên bố của hai địa phương này, xét về mặt quốc tế, là không đủ sức đại diện, không “ngang tầm” chính quyền Trung Quốc. Chỉ có Bộ Ngoại giao (trở lên) mới có tiếng nói tương đương đối phương, ở trường hợp này. Ngoài ra, còn một cách khác là nhân dân Việt Nam cùng thể hiện ý chí phản đối, chẳng hạn thông qua việc biểu tình.


“Như vậy là đã rõ, hành động của Trung Quốc cũng chỉ là hành động khiêu khích bằng tuyên bố của 1 đơn vị kinh tế của Trung Quốc”.

Nhưng đơn vị kinh tế đó là một doanh nghiệp nhà nước, chứ không phải là một công ty tư nhân. Trong mô hình kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam thì doanh nghiệp nhà nước bao giờ cũng gánh vác nhiệm vụ chính trị và chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Tuyên bố của “một đơn vị kinh tế” trong trường hợp này không đơn giản chỉ là của một công ty. Bản thân ông Đỗ Văn Hậu, Tổng Giám đốc của PetroVietnam, cũng đã khẳng định: “Việc làm này chắc chắn là có sự tham gia, đồng ý của Chính phủ Trung Quốc”.


“Phản ứng của Chính phủ Việt Nam là hoàn toàn kịp thời, đúng quy định và hiện nay cũng chẳng có và sẽ chẳng có bất cứ công ty nước ngoài nào nhận lời mời thầu phi pháp trên của Trung Quốc”.

Có thể tác giả đúng mà cũng có thể sai hoàn toàn – lập luận như thế này đơn giản là không đủ thuyết phục. Nếu trình bày như tác giả, rằng “sẽ chẳng có bất cứ công ty nước ngoài nào nhận lời mời thầu phi pháp trên của Trung Quốc”, thì chỉ là một khẳng định chủ quan. Thêm nữa, cứ giả sử là sẽ không có công ty nào nhận lời mời thầu của Trung Quốc, thì cũng lấy đâu ra căn cứ để nhận định họ không nhận lời vì họ cho như thế là phi pháp hoặc vì họ thấy “Chính phủ Việt Nam phản ứng hoàn toàn kịp thời, đúng quy định”?

Nếu muốn chứng minh, có lẽ tác giả nên sử dụng những lập luận vững chắc hơn, ví dụ chỉ ra rằng trong lịch sử dầu khí quốc tế, các công ty không có tiền lệ khai thác ở những vùng còn trong trạng thái tranh chấp. Và cũng cần phải xác định rõ rằng, ngay cả việc Trung Quốc biến một địa điểm hoàn toàn nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam thành “vùng tranh chấp”, nếu chuyện này xảy ra, cũng là một thành công của Trung Quốc, và rất nguy hiểm cho Việt Nam. Giả sử hậu quả xảy ra sau hành động mời thầu 9 lô dầu của Trung Quốc, là nhiều công ty dầu khí quốc tế tưởng rằng khu vực này là vùng biển tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc, thì lúc đó, ta có thể nói rằng tác giả đã “mất cảnh giác” không?

Không có gì đảm bảo rằng “sẽ chẳng có bất cứ công ty nước ngoài nào nhận lời mời thầu phi pháp trên của Trung Quốc”. Đó là chuyện của tương lai, không thể khẳng định vô căn cứ như vậy. Muốn đảm bảo được điều đó, ít nhất cũng cần phản ứng đồng bộ của Nhà nước và nhân dân, mà biểu tình như một hình thức “ngoại giao nhân dân” là rất quan trọng (đánh động dư luận trong nước, quốc tế - xem thêm những phản ứng của Trung Quốc về vụ này).

Mặt khác, như đã nhiều lần được chứng tỏ, phản ứng của Nhà nước tỏ ra chậm hơn nhiều so với phản ứng của công luận (nhân dân), và phản ứng của nhân dân khiến Nhà nước có tư thế hơn trên bàn đàm phán. Đó là sự cần thiết của “ngoại giao nhân dân”.


“Hành động xuống đường phản đối có cần thiết hay không? Những người yêu nước xuống đường chung với những gương mặt “thích biểu tình”, thích quấy rối và nhiều gương mặt “có vấn đề” với Chính quyền có đạt được đúng mục đích ban đầu của lời kêu gọi hay là mục đích khác? Đó chính là sự lợi dụng lòng yêu nước”.

Đây không gọi là một lập luận, vì nó chủ quan, chụp mũ, và tất nhiên, hoàn toàn vô căn cứ. Tác giả sử dụng bằng chứng nào để cho rằng tồn tại những gương mặt thích biểu tình, thích quấy rối? Cứ giả sử rằng có những nhân vật như thế, thì tác giả cũng phải làm một nhiệm vụ rất nặng nề: Chứng minh. Bằng chứng, bằng chứng và bằng chứng.

Gương mặt nào “có vấn đề” hay quấy rối, vi phạm pháp luật thì chính quyền cứ việc xử lý họ (nếu họ có hành vi như vậy). Không thể đưa ra một tình huống giả định để đánh giá xấu một hành động được tiến hành với mục đích tốt.

Ở đây tác giả cũng cần thận trọng để tránh lỗi ngụy biện “Spot Light” (Ánh đèn sân khấu) khi mặc định rằng tất cả các thành viên của một nhóm nào đó đều giống như những thành viên thu hút sự chú ý của truyền thông nhất. Tránh lỗi “Slippery Slope” (Cái dốc trơn) khi suy bừa từ một hiện tượng này sang một hiện tượng khác, không kèm theo căn cứ nào.

Cũng cần phải thừa nhận rằng, mọi cuộc biểu tình đều khó mà có cái gọi là “mục đích thuần nhất, trăm người như một”. Bản chất của xã hội loài người là đa nguyên, hay diễn đạt một cách nhẹ nhàng hơn, đa dạng về tinh thần. Không ai giống ai cả, và trong 100 người cùng tham gia một cuộc biểu tình với mục đích xác định trước là A, vẫn có thể có 10-20 người ngoài A còn có thêm mục đích B, hoặc chỉ có mục đích B. Phần đông đi biểu tình vì tinh thần dân tộc, vì yêu nước, vì ghét bá quyền Trung Quốc. Nhưng vẫn có thiểu số đi vì những lý do khác: đi để chụp ảnh, đi để quan sát, trải nghiệm, thậm chí không loại trừ việc đi… cho vui, mấy khi ở Việt Nam có dịp tụ tập đông người.

Và chúng ta đừng quên rằng cũng có những người muốn thu hút sự chú ý của dư luận đến vấn đề riêng của mình hoặc của tầng lớp nào đó trong xã hội, mà họ không có điều kiện lên tiếng ở những nơi khác. Do đó, họ buộc lòng phải tìm đến một sự kiện gây chú ý, để làm cho tiếng nói của mình được lắng nghe. Chúng ta có thể không thích cách họ “tận dụng”, “lợi dụng” biểu tình cho mục đích riêng, lợi ích riêng. Nhưng không thể chỉ trích, lên án họ, nhất là không thể coi họ như một loại người đáng ghét, phải cách ly khỏi các hoạt động xã hội, nơi tụ tập đông người. Có chăng, phải nhận thấy xã hội Việt Nam rất cần một cơ chế để mọi thành phần trong xã hội đều được cất lên tiếng nói. Đó là: tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình, tự do tổ chức họp báo/ hội thảo/ sự kiện/ viết blog (có thể gọi chung là quyền tự do biểu đạt/thể hiện chính kiến).


“Thứ hai, kết thúc cái gọi là biểu tình, tuần hành ôn hòa, tôi lướt qua hàng chục trang web: nổi bật lên không phải là sự thỏa mãn của lòng yêu nước chính đáng mà là sự hả hê của những tổ chức, cá nhân khi đã tập hợp được một lượng người cần thiết xuống đường để cho thấy “Chính quyền, công an phải vất vả”, để cho thấy những tổ chức, cá nhân đó có thể hiệu triệu được mọi người, để có thể “tập dần thói quen phản kháng của người dân với chính quyền”.

Ở đây có một thực tế, là có những người biểu tình (không biết thuộc “phái” nào, nếu như có tồn tại cái gọi là “phái”) có lồng ghép nội dung bày tỏ sự bất mãn, hay nói cách khác, sự không đồng tình với chính sách ngoại giao của Nhà nước. Họ có thể cho rằng Nhà nước cư xử hèn nhát/ kém cỏi trước bá quyền Trung Quốc. Họ có thể đúng, hoặc sai, nhưng việc làm của họ - nếu diễn ra ôn hòa như cách họ đã làm - là không có gì sai cả, và không đáng bị đem ra bêu riếu. Họ có “hả hê”, khoái trá, thì cũng vẫn… chỉ là trên mạng, chứ họ chưa để xảy ra một vụ bạo loạn, xô xát, hay gây ra thiệt hại vật chất và tinh thần cho ai (chỉ trừ cho cơ quan công quyền, nếu có).

Cơ quan công quyền – cụ thể là công an – có thể ức chế, tức giận, điên tiết đấy, nhưng… vẫn phải chấp nhận. Nghe ra thì có vẻ như cơ quan công quyền phải chịu cái nhìn đầy khắt khe và định kiến từ dư luận xã hội, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là nguyên tắc; nguyên tắc ấy nói rằng công an - cảnh sát - an ninh điều tra bao giờ cũng phải là lực lượng gương mẫu, lực lượng đi đầu tuân thủ luật pháp trong xã hội, và luôn phải nhận phần khó, phần thiệt về mình trong quan hệ với nhân dân. Vì lẽ họ là lực lượng có đầy đủ sức mạnh và công cụ để trấn áp, vốn dĩ họ mạnh hơn hẳn nhân dân – nên họ… phải nhường dân. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chủ tịch từng dạy công an: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”.

Một ví dụ để so sánh: Có một tầng lớp trong xã hội hiện nay cũng bị cộng đồng mạng chỉ trích, lên án gay gắt, là giới báo chí, nhất là “đám phóng viên lá cải”. Các bạn nghĩ sao nếu các nhà báo cũng phản ứng  với dân mạng tương tự như công an, tức là đánh, đạp mặt, bẻ tay, bắt bớ, gây khó dễ, gây sức ép buộc thôi việc, mất nhà trọ v.v.? (Hoạt động báo chí hiện nay ở Việt Nam cũng được xem như hoạt động công vụ, bằng chứng là có những nhà báo đã bị bắt vì tội “lạm dụng quyền hạn, chức vụ trong khi thi hành công vụ”). Nói rộng ra, các bạn nghĩ sao nếu trong xã hội, tồn tại những nhóm công dân được cho, và/hoặc tự cho mình quyền xâm phạm thân thể người khác, nhân danh “công vụ”?


“Những bài viết ở các trang web, blog, facebook miêu tả việc bắt bớ, đánh đập, đàn áp, tôn vinh những “ngọn cờ” với những thông tin “thêm mắm, dặm muối”, mô tả những chi tiết (qua lời kể, thậm chí là trí tưởng tượng phong phú của một ai đó) đầy rẫy trên mạng, từ đó những dòng phản hồi (conments) của một số phần tử mang tính bắc cầu (lấy chuyện biểu tình chống Trung Quốc nói sang chuyện chế độ hiện nay, lấy chuyện yêu nước để đả kích Chính quyền, Công an…) tiếp tục xuất hiện, càng nhiều, và cuối cùng kết luận chung của những bài viết này cho buổi sáng hôm nay là “…một chiến thắng của những công dân Việt Nam trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội ngày hôm nay”. Bây giờ các bạn đã nhận thấy mục đích chính của những kẻ phát động biểu tình lúc này chưa? Đó chính là sự lợi dụng lòng yêu nước”.

Nếu chính quyền có cách ứng xử thỏa đáng với biểu tình (không đàn áp, không gây khó dễ trong và sau biểu tình, không có những biểu hiện phản cảm như khênh người, xô đẩy, đạp mặt, thóa mạ…) thì không ai có thể xuyên tạc, vẽ rắn thêm chân được. Ở một đất nước bình thường, biểu tình là chuyện hết sức bình thường. Không ai bảo đi biểu tình là “chiến thắng” cả - điều đó chỉ có thể xảy ra ở một quốc gia mà quyền thể hiện ý nguyện công dân đã bị vi phạm tới mức trầm trọng.

Trong lần biểu tình này, những người biểu tình cũng không đề cập đến việc Trung Quốc tuyên bố mời thầu dầu khí như là nguyên nhân chính yếu để họ xuống đường phản đối. Với những người yêu nước, có tinh thần dân tộc chủ nghĩa, thì mục đích của họ là bảo vệ lợi ích quốc gia và phản đối việc một bá quyền láng giềng đe dọa làm thiệt hại lợi ích đó. Họ có thể bị lợi dụng (cứ giả sử như vậy), thì nhiệm vụ của chính quyền (nếu có) là ngăn chặn những hành vi lợi dụng (nếu các hành vi đó có màu sắc bạo lực, đe dọa sức khỏe, tính mạng công dân), chứ không phải… gộp tất cả vào một rọ, ngăn chặn tuốt, theo cái tư duy “cùng một công chặn”.


“Thứ ba, những “ngọn cờ” như Bùi Thị Minh Hằng, Kim Tiến, Huỳnh Thục Vy, Huỳnh Trọng Hiếu, Huỳnh Công Thuận, Juse Lê Duy… nếu đủ tỉnh táo các bạn có thể nhận ra họ là ai và vì sao họ lại luôn hăng hái xuống đường biểu tình bất cứ lúc nào miễn có lý do nào đó. Những “ngọn cờ” ấy, nếu chịu khó tìm đọc trên các trang web (thậm chí là những trang web của các tổ chức phản động khác nhau ở hải ngoại) cũng có thể vạch trần bộ mặt thật của họ”.

Những người trên có thể đã nhiều lần xuống đường vì những lý do riêng (và rất có thể những lý do riêng ấy là đúng đắn), nhưng họ cũng có quyền xuống đường với mọi người vì những mối lo chung của đất nước, dân tộc. Hai việc này không mâu thuẫn, không loại trừ lẫn nhau. Nếu trong biểu tình, họ làm gì trái luật (kích động hằn thù dân tộc, kêu gọi bạo loạn…) thì chính quyền có thể đơn giản là cứ đối chiếu đúng theo luật pháp mà xử lý họ, như đã nói ở trên.


“Những khẩu hiệu, phát ngôn của họ sặc mùi đả kích chính quyền, đả kích chế độ nhưng lại mặc màu áo “bảo vệ biển đảo quê hương”. Chính vì thế, tôi không ngạc nhiên khi thấy những băng rôn kiểu “Hãy hành động xứng đáng tiền thuế của nhân dân”, “đoàn kết dân tộc, tôn giáo…” xuất hiện, thậm chí, tôi còn kinh bỉ kẻ đã viết băng rôn “với hình ảnh Ngọc Trinh mang dòng chữ “đầu hàng Trung Quốc thì cạp đất mà ăn à?”. Đó chính là sự lợi dụng lòng yêu nước”.

Các khẩu hiệu trên cũng không có gì sai trái. Tùy quan niệm, mỗi người có thể thích hay không, nhưng ở đây không có sự vi phạm thuần phong mỹ tục hay là đi ngược lại bất cứ luật định nào.

Biểu ngữ “Hãy hành động xứng đáng với tiền thuế của dân” không hề sai, nó nêu lên một đòi hỏi hoàn toàn đúng và luôn luôn đúng: Chính quyền nào mà chẳng phải hành động xứng đáng với tiền thuế của dân? Riêng biểu ngữ có hình ảnh Ngọc Trinh, người duy nhất có quyền và có đủ tư cách lên tiếng phản đối là Ngọc Trinh, vì cô ấy không phát ngôn như thế. Mặc dù vậy, biểu tình – với mục đích cao nhất là đánh động dư luận, gây sự chú ý của Nhà nước và công luận tới một vấn đề cụ thể nào đó – là lúc để những người biểu tình có thể sử dụng mọi “chiêu trò” giống như marketing để thông điệp của họ được nổi bật. Nghĩa là:

  • Họ có thể đi biểu tình nhiều lần, lặp đi lặp lại.
  • Họ có thể giơ cao những biểu ngữ kỳ cục nhất mà họ nghĩ ra được, thậm chí kể cả biểu ngữ nêu những điều có tính chất chân lý, luôn luôn đúng, như: “Mặt trời mọc đằng đông, lặn đằng tây”, “Chính quyền phải hành động xứng đáng với lá phiếu của người dân/ với tiền thuế của nhân dân”, v.v.
  • Họ có thể đến những địa điểm đông người chứng kiến nhất, vào những thời điểm có đông người tham dự/ quan sát nhất.
  • v.v.

Cũng cần hiểu thêm rằng, trong một xã hội, kể cả khi tất cả mọi người đều thấy hạnh phúc, yêu đời, hài lòng với cuộc sống, mà lại có một hoặc một số cá nhân cứ biểu tình hoặc viết báo, viết blog bày tỏ sự bất mãn, cứ chỉ trích chính quyền hèn kém khốn nạn nọ kia… thì những người xung quanh cũng cứ phải tôn trọng, không được phép khinh bỉ, bôi nhọ họ. Đó chính là biểu hiện của sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận, vốn dĩ bao gồm cả quyền đồng ý lẫn quyền bất đồng, của đa số cũng như của thiểu số


“Thứ tư, tôi từ Trường Sa về. Suốt 16 ngày ở nơi đầu sóng, ngọn gió của Tổ quốc, tôi đủ kiến thức và sự tự tin để khẳng định với các bạn rằng: Việt Nam chúng ta đang làm rất tốt việc giữ gìn biển đảo quê hương. Chúng ta vẫn tiếp tục khai thác tài nguyên, khoáng sản, vẫn tiếp tục phát triển kinh tế biển để làm giàu cho Tổ quốc mà không có bất cứ kẻ ngang ngược nào có thể cản trở”.

Đây là lỗi ngụy biện “lạm dụng quyền lực” (Appeal to Authority). Nó là kết quả của tư duy sai lầm: Tôi (được) đi Trường Sa, vì vậy tôi có quyền phát ngôn về mọi chuyện liên quan tới Trường Sa, còn các vị không (được) đi Trường Sa thì… trật tự!

Câu nói ấy có thể đúng hoặc sai, vì tác giả không đưa ra bằng chứng nào ngoài tuyên bố chủ quan “tôi đủ kiến thức và sự tự tin để khẳng định”. Nhưng cứ giả sử câu ấy là đúng với thực tế khách quan (factually correct), thì nó lại chẳng ăn nhập gì với câu sau, hay nói đúng hơn, câu tiếp theo đây chẳng ăn nhập gì với nó:


“Vậy thì, thay vì xuống đường, đứng chung hàng ngũ với nhiều thành phần cơ hội, cải lương, phản động… các bạn trẻ nên dành sức lực ấy làm việc có ích cho tổ quốc”.

Việc Việt Nam làm rất tốt nhiệm vụ giữ gìn biển đảo quê hương thì liên quan gì đến việc một bộ phận người dân vẫn cứ xuống đường để biểu tình, nói lên tiếng nói của họ, phản đối Trung Quốc?

“Xét về mặt logic, chuyện Nhà nước lo về chủ quyền quốc gia và chuyện công dân đi biểu tình là hai chuyện khác nhau, không mâu thuẫn với nhau và không triệt tiêu lẫn nhau. Vì vậy chuyện Nhà nước lo không có nghĩa là công dân không được lo, càng không có nghĩa là công dân không được biểu tình. Và chuyện công dân đi biểu tình không có nghĩa là họ không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước như nhiều người ngụy biện” (trích bài “Về chuyện đã có Đảng và Nhà nước lo” của luật gia - nhà báo Trịnh Hữu Long).

Vấn đề xuyên suốt bài viết của tác giả này, cũng như rất nhiều bài khác phản đối các cuộc biểu tình, là đặt Nhà nước và người biểu tình trong thế đối lập nhau và thực hiện mọi suy luận trên tiền giả định đó. Đây là một tiền giả định sai lầm. Nếu đã sai ngay từ đầu như thế, các kết luận thực sự không còn ý nghĩa.


“Hãy học thật giỏi, hãy làm việc thật hăng say nhằm có nhiều điều kiện đóng góp công sức phát triển biển, đảo Việt Nam, hãy suy nghĩ cách nào đó để lính đảo bớt cực nhọc giúp họ vững tay súng, cách nào đó để ngư dân bớt khổ giúp họ yên tâm bám biển, hãy đóng góp những gì có thể khi Tổ quốc cần, như vậy chính là yêu nước”.

Đây là ngụy biện lớn nhất trong bài viết, và cũng rất đặc thù ở các bài viết khác cùng loại. “Dành sức lực ấy làm việc có ích cho Tổ quốc”, “học thật giỏi, hãy làm việc thật hăng say nhằm có nhiều điều kiện đóng góp công sức phát triển biển, đảo Việt Nam”, v.v… không hề mâu thuẫn hay có gì trái ngược với việc thể hiện lòng yêu nước thông qua biểu tình, vì không thiếu người biểu tình trong đời thường và công việc vẫn cống hiến hàng ngày cho đất nước, và bản thân hành động biểu tình của họ cũng đã là một sự cống hiến, thông qua việc ý thức được trách nhiệm công dân.

Lỗi lập luận này có tên gọi là Red Herring (Cá Trích Đỏ), là ngụy biện trong đó một chủ đề không liên quan được đưa ra để đánh lạc hướng chú ý khỏi vấn đề ban đầu. Chủ ý căn bản là để “chiến thắng” trong cuộc tranh luận bằng cách kéo sự chú ý của mọi người khỏi luận điểm đang bàn luận để chuyển sang một chủ đề khác.


“Xuống đường chung “chiến tuyến” với những kẻ cơ hội, góp phần giúp chúng đạt được mục đích hay là suy nghĩ chín chắn để có hành động phù hợp, các bạn hãy tự quyết định”.

Tác giả phạm lỗi ngụy biện “Khái quát hóa vội vã” (Hasty generalization). Không phải tất cả những người xuống đường đều là kẻ cơ hội. Không thể vì vài phần tử xấu (không rõ là ai, và tác giả cũng không có bằng chứng để buộc tội một cá nhân nào đó cụ thể là phần tử xấu) mà khái quát rằng cả một tập thể đều xấu, nhất là khi cái gọi là “tập thể” này hình thành mang tính tự phát, không có tổ chức, không có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Ngoài ra, người yêu nước xuống đường không phải là để cùng chiến tuyến với những kẻ cơ hội (nếu có), mà chính đó là một suy nghĩ chín chắn để thể hiện chính kiến yêu nước của mình và thông qua đó, vạch trần bộ mặt những kẻ cơ hội (bất kể có đi biểu tình hay không).


***


Cái đáng lo ngại là một bài viết phạm nhiều ngụy biện (lỗi lập luận) như vậy mà lại có vẻ được nhiều cư dân mạng hưởng ứng, căn cứ số lần chia sẻ nó. Điều đó chứng tỏ rằng, một bộ phận – có lẽ khá đông đảo – cư dân mạng Việt Nam, nhất là các bạn trẻ, không có khái niệm về ngụy biện và không hiểu biết về kỹ năng tranh luận, văn hóa tranh luận tối thiểu.

Vượt ra ngoài bài viết này, nếu các bạn ủng hộ những nhận định mang tính thóa mạ, mạt sát người khác, thì còn đáng lo ngại hơn nữa: Bằng sự ủng hộ đó, các bạn đã thể hiện thái độ tấn công vào quyền tự do ngôn luận, nói rộng hơn là không tôn trọng con người – đồng bào của bạn, đồng loại của bạn.