Con
đường bành trướng xuống phía nam của Trung Quốc được thực hiện cả trên bộ lẫn
trên biển. Nếu quá bị cuốn vào chuyện biển Đông, chúng ta có thể rơi vào bẫy của
Trung Quốc.
“Cần phải nhìn nhận quá trình nam tiến của Trung Quốc
một cách toàn diện, trong đó không chỉ có khu vực biển Đông và hình thức xung đột
quân sự. Đó còn là quá trình diễn ra trên đất liền với những hình thức chiến
tranh kinh tế, chiến tranh tiền tệ, chiến tranh mạng, là bành trướng văn hóa,
là áp lực chính trị, là quá trình di dân...” - Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên
Tùy viên quân sự Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, nhận định.
Phân tích vị trí địa lý của Trung Quốc, ông Quách Hải
Lượng không đánh giá cao cơ hội của Trung Quốc ở phía bắc (giáp với Nga), phía
đông (bị Nhật Bản, Hàn Quốc án ngữ, mà đó là những đồng minh thân cận của Mỹ)
và phía tây (giáp vùng Trung Á, vốn bất ổn với sự cạnh tranh của nhiều cường quốc).
Hướng mở rộng của Trung Quốc gần như chỉ có một.
Nhận định này cũng trùng với ý kiến của TS chính trị
học Đinh Hoàng Thắng. Trong một cuộc trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Thắng
nói: “Phải thấy là Trung Quốc chỉ còn phía nam để phát triển xuống. Thế kỷ 21
là thế kỷ của đại dương, nếu chỉ dừng chân trong lục địa Trung Hoa thì không được,
mà các ngả khác thì bị chặn hết rồi”.
Biểu hiện rõ ràng nhất của tư tưởng “nam tiến” có lẽ
đã xuất hiện từ thời Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc từ năm 1949 đến năm 1976.
Tháng 9-1963, Chu Ân Lai phát biểu trong cuộc gặp gỡ với các đại diện của Đảng
Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Indonesia tại
Quảng Đông: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng
Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam châu Á” (Sự thật về
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm, NXB Sự thật, năm 1979).
Đồng
tiền đi trước
Hiếm khi nào trong lịch sử sự hiện diện của Trung Quốc
ở Đông Nam Á lại mạnh mẽ trên tất cả lĩnh vực như từ một thập kỷ trở lại đây.
Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar, với sự gắn kết chặt chẽ về địa lý và văn
hóa với Trung Quốc, với những yếu kém nội tại của mình, là mắt xích yếu nhất dọc
biên giới mà người láng giềng phương bắc của họ có thể khai thác. Đồng tiền đi
trước, con đường đầu tư kinh tế có lẽ là lối đi nhanh và hiệu quả nhất. Trong một
bài viết mới đây, nhà nghiên cứu Trung Quốc Bonnie S. Glaser (Trung tâm Nghiên
cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, Mỹ) cho biết: “Trong hơn một thập kỷ qua,
Trung Quốc đã theo đuổi một chiến lược ở Đông Nam Á với nội dung căn bản là sử
dụng “củ cà rốt” kinh tế để làm tăng lợi ích của các nước Đông Nam Á trong việc
gìn giữ quan hệ tốt với Trung Quốc”.
Năm 2010, với những khoản đầu tư trị giá 2,9 tỉ USD,
Trung Quốc trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Lào và có trong tay khoảng 10.000
km2 đất dự án, tương đương với 4% diện tích của cả nước Lào. Người Trung Quốc
kiểm soát phần lớn nền kinh tế Lào, từ khai thác mỏ, thủy điện đến cao su, hay
cả ngành bán lẻ và dịch vụ khách sạn.
Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Campuchia: Trong
năm năm qua, Campuchia đã nhận được khoảng 2 tỉ USD tiền viện trợ từ Bắc Kinh với
những điều kiện hết sức hào phóng.
Tại Myanmar, 8,7 tỉ USD đã được Trung Quốc rót vào
các dự án đầu tư trong năm 2010, chưa kể khoản vay không lãi trị giá 4,2 tỉ
USD. Tính đến tháng 7-2011, 800 dự án của các nhà đầu tư Trung Quốc cũng đang
hoạt động tại Việt Nam với số vốn đăng ký 3,2 tỉ USD, đứng thứ năm trong các
nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
“Làm
đường đến đâu xâm chiếm đến đấy”
Đầu tháng 7-2012, lần đầu tiên Hội nghị các ngoại
trưởng ASEAN với lịch sử 45 năm không thể đưa ra được thông cáo chung mà lý do
là sự bất đồng của nước chủ nhà Campuchia với các nước có liên quan đến tranh
chấp trên biển Đông. Nguyên nhân sâu xa này nhanh chóng được lý giải khi ngay
sau hội nghị, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cảm ơn Campuchia về sự hợp tác chặt chẽ
của chủ nhà trong tiến trình hội nghị.
Nhà phân tích Bonnie S. Glaser nhận định: “Việc
Trung Quốc gây ảnh hưởng khống chế lên Campuchia không phải điều đáng ngạc
nhiên. Bắc Kinh đã cung cấp tới hơn 10 tỉ USD đầu tư trực tiếp cho Campuchia.
Chỉ tính riêng trong năm 2011, lượng đầu tư mà Trung Quốc cam kết với Phnom
Penh cao gấp 10 lần con số Mỹ cam kết. Sự phụ thuộc của Campuchia vào Trung Quốc,
về mặt kinh tế, thể hiện rõ ở Cung điện Hòa Bình - công trình được xây bằng tiền
tài trợ của Trung Quốc - là nơi họp hội nghị thượng đỉnh ASEAN vừa qua”.
Tháng 6-2011, thủ tướng Campuchia công khai khẳng định
Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất, đồng thời là nhà tài trợ lớn nhất trong việc
giúp đỡ Campuchia xây dựng cơ sở hạ tầng, gồm đường sá, cầu cống... Vấn đề ở
đây, theo các nhà phân tích, là các thỏa thuận kinh tế luôn kéo theo những hệ
quả chính trị, xã hội, quân sự đã được hoạch định từ trước đó.
Đại tá Quách Hải Lượng nói: “Trung Quốc rất giỏi
trong việc xâm chiếm bằng cách làm đường. Làm đường đến đâu xâm chiếm đến đấy,
di dân đến đấy. Họ mưu tính làm một con đường suốt từ Vân Nam đi dọc Lào xuống
tới tận Tây Nguyên, mà ở đoạn cuối Tây Nguyên thì Campuchia và Lào cho họ thuê
đất tới 55 năm. Như vậy cả khu vực sẽ gần như là đất của họ”.
“Đứng về chiến
lược quân sự, đó là những con đường cơ động chiến lược và cơ động chiến dịch. Về
kinh tế thì có thể khống chế được toàn bộ các hành lang quan trọng của bán đảo
Đông Dương. Họ xây dựng cơ sở hạ tầng là nhằm như thế” - ông Lượng giải thích.
Trung Quốc đang nắn dần đường biên giới quốc gia
không theo cách thức tấn công quân sự truyền thống mà bằng cách di dân. Số liệu
thống kê chưa đầy đủ cho thấy có khoảng 2,5 triệu người Hoa đến Đông Nam Á làm
ăn sinh sống trong vòng 30 năm qua. Khoảng 1 triệu người Trung Quốc cũng đã di
dân đến Myanmar trong giai đoạn 1995-2005, theo báo cáo của nhà nghiên cứu độc
lập Sudha Ramachandran (Ấn Độ) và khoảng 300.000 người Trung Quốc đang sinh sống
rải rác khắp nơi ở Campuchia. Đây hầu hết là lao động Trung Quốc tìm cách ở lại
khu vực bản địa sau khi hết hợp đồng với các dự án. Họ thậm chí hình thành nên
các khu "phố Tàu" như ở Mandalay (Myanmar) hay Viêng Chăn (Lào).
Tại Lào, một doanh nghiệp Trung Quốc đã thuê cả một
thị trấn nằm sát biên giới hai nước và biến nơi đây gần như thành khu vực của
riêng người Trung Quốc. Thị trấn rộng 21 km2 được đặt tên là Bò Thèn này có
ngôn ngữ chính là tiếng Trung, thanh toán bằng nhân dân tệ và sử dụng giờ Bắc
Kinh thay vì giờ Viêng Chăn. Hệ thống điện, viễn thông và ngay cả các lực lượng
chức năng như công an cũng đều được “kéo” từ Trung Quốc sang. Lực lượng hải
quan đã dời từ biên giới Lào-Trung xuống phía nam của thị trấn này. (Trung Quốc
tăng cường di dân sang Lào, website nghiencuubiendong.vn, Học viện Ngoại giao,
29-3-2010).
Nói đến sự hiện diện của người Trung Quốc ở các khu
Hoa kiều và nhiều khu vực có dự án đầu tư ở Việt Nam, Đại tá Quách Hải Lượng
nói: “Nếu chấm trên bản đồ Việt Nam những khu vực có người Trung Quốc sinh sống,
chúng ta sẽ có một tấm bản đồ da báo”.