- Hữu Long - Hoàng Thư
Thập kỷ đầu tiên của
thế kỷ 21 đã qua đi với những dấu chỉ rất rõ ràng về một cuộc chạy đua vũ trang
trên biển Đông. Các nước Đông Nam Á như Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái
Lan… đều đua nhau tăng ngân sách cho quốc phòng. Điều đáng nói là cũng có những
dấu hiệu cho thấy dường như cả khu vực đang bị cuốn vào một cái bẫy…
Sẽ còn rất lâu nữa tàu sân bay Shi-lang (Thi Lang) mới có
thể đem lại sức mạnh hải quân thực sự cho Trung Quốc. Nhưng việc hạ thủy con
tàu khổng lồ có thiên hướng tấn công rõ ràng này của Trung Quốc vào tháng 8 năm
ngoái đã gần như trở thành biểu tượng đánh dấu sự bắt đầu của một cuộc chạy đua
vũ trang mới ở châu Á-Thái Bình Dương.
Cuộc đua đã bắt đầu
Đầu tháng 3-2012, phát ngôn viên Quốc hội Trung Quốc Lý
Triệu Tinh thông báo là ngân sách quốc phòng trong năm 2012 sẽ tăng 11,2%, lên
tới 80,6 tỉ euro, tức là hơn 105 tỉ USD. Nhiều năm qua, tỉ lệ tăng ngân sách
quốc phòng của nước này cũng thường xuyên vượt quá 10% và đó là dựa theo con số
được công bố chính thức. Trên thực tế, người ta luôn nghi rằng chi phí cho quân
sự của Trung Quốc có thể cao hơn thế rất nhiều - hoặc ít nhất thì Trung Quốc
cũng làm cho dư luận có suy nghĩ như vậy.
Trên thực tế, mọi chuyện bắt đầu từ cả một thập kỷ trước đó,
khi Trung Quốc khẳng định mình như một cường quốc thực sự và không che giấu
tham vọng bành trướng thế lực của mình. Trong 10 năm, Trung Quốc đã tiêu 16,4
tỉ euro (hơn 21 tỉ USD) để trở thành nước mua sắm vũ khí lớn nhất thế giới,
vượt qua cả Ấn Độ, Hàn Quốc và Hy Lạp. Trước tình thế đó, các nước Đông Nam Á
như Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái Lan… đều đua nhau tăng ngân sách cho
quốc phòng. Một trong những nhân vật chính của tranh chấp Biển Đông là
Philippines, sau nhiều năm bỏ bê hải quân và hạn chế hiện đại hóa quân đội, đã
đột ngột gia tăng 81% chi tiêu quốc phòng trong năm 2011, lên mức 2,5 tỉ USD
với ưu tiên hàng đầu là các hạng mục mua sắm vũ khí. Ngay cả đến Singapore -
quốc đảo có nền kinh tế thịnh vượng nhất khu vực, dân số vỏn vẹn 5 triệu - cũng
đã đạt mức chi tiêu khổng lồ cho quân sự trong vài năm qua và trở thành nước
nhập khẩu vũ khí nhiều thứ hai thế giới trong năm 2009, theo số liệu của Viện
Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI).
Nhớ lại nghệ thuật cờ
vây
Bằng cách đó, toàn khu vực Đông Nam Á dường như đã được đặt
trong tình trạng chạy đua vũ trang. Theo SIPRI, so với năm 2000, chi tiêu cho
quân sự của khu vực tăng 50%. Một nhà nghiên cứu ở viện này, ông Siemon
Wezeman, nhận xét: “Chắc chắn là việc Trung Quốc xúc tiến sức mạnh quân sự và
vươn bàn tay của họ ra bên ngoài đóng vai trò chủ đạo trong chuyện gia tăng
ngân sách quốc phòng của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia”.
Đáng chú ý là không riêng Trung Quốc mà các nước khác cũng
đều tạo cho dư luận cảm tưởng rằng chi phí cho quân sự thực tế cao hơn so với
con số công bố nhiều. Theo các chuyên gia, sự không minh bạch trong cuộc chạy
đua vũ trang lại càng khiến cho không khí thêm căng thẳng, khiến các bên lo sợ,
nghi ngại, đề phòng lẫn nhau và từ đó gây ảnh hưởng xấu đến an ninh khu vực.
Điều này lại gợi cho người ta nhớ đến một tổng kết của cựu
Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger trong cuốn sách nổi tiếng gần đây của ông, On China, trong đó ông phân tích nhiều
về nghệ thuật cờ vây của người Trung Quốc, cho rằng nó đã được áp dụng vào quân
sự: Theo Kissinger, tư duy chiến lược của người Trung Quốc hướng đến chiến
thắng thông qua lợi thế về tâm lý hơn là qua đối đầu trực tiếp. Đôi khi chỉ gây
một sự bất an về tâm lý là đủ để cuốn đối phương vào một cuộc chạy đua muốn hụt
hơi. Chiến thuật tâm lý này, nếu đúng là đang được Trung Quốc áp dụng, càng
hiệu quả hơn khi ta biết rằng ngân sách quốc phòng của một quốc gia có xu hướng
tỉ lệ nghịch với sự phát triển. Tiến sĩ địa chất hàng hải Đàm Quang Minh, thành
viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, cho biết dường như đã hình thành một quy luật
chung là hễ khi nào ngân sách quốc phòng vượt quá 17% GDP thì quốc gia sa sút
về kinh tế.
Các chuyên gia cũng đề cập tới một vài nguyên nhân khác
không liên quan gì tới an ninh, như vấn nạn quan liêu, tham nhũng; song yếu tố
chủ chốt thúc đẩy ASEAN lao vào cuộc chạy đua vũ trang vẫn là Trung Quốc. Ông
Tim Huxley ở Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Singapore cho rằng tình hình
giữa Trung Quốc và Đông Nam Á cũng giống như câu chuyện giữa Đức và Anh trước
Thế chiến thứ nhất, hay Mỹ và Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh.
Bài học trong quá khứ
Cho đến nay, sự kiệt quệ về kinh tế của Liên bang Xô Viết
vẫn được nhắc đến như một bài học lịch sử kinh điển mà bất cứ quốc gia nào có ý
định chạy đua vũ trang cũng phải nhớ.
Vào thời điểm năm 1980, nền kinh tế Liên Xô, với những
khuyết tật mà nó mang trong mô hình quản lý tập trung của mình, đã trở nên suy
yếu một cách nghiêm trọng. Nắm được tình hình khủng hoảng tại Liên Xô, chính
phủ Hoa Kỳ của Tổng thống mới đắc cử Ronald Reagan đã thi hành một chiến lược
chống phá mới nhằm giáng những đòn cuối cùng triệt hạ đối thủ. Một cuộc chạy
đua vũ trang mới đã được Hoa Kỳ phát động sau một thập kỷ hòa hoãn của cuộc
Chiến tranh Lạnh. “Sáng kiến phòng thủ chiến lược - SDI” hay còn được biết đến
với tên gọi “Chiến tranh giữa các vì sao” đã được Hoa Kỳ khởi xướng từ tháng
3-1983 với việc sử dụng phần lớn vũ khí hạt nhân đặt trong vũ trụ, nhằm tiêu
diệt các tên lửa trên đường bay đến mục tiêu, đồng thời có khả năng nhằm vào
các mục tiêu trên mặt đất.
Dù mang danh nghĩa là “phòng thủ”, SDI đã đặt Liên Xô vào
thế bị đe dọa nghiêm trọng và buộc phải có những giải pháp tương ứng để cân
bằng chiến lược. Bên cạnh đó, do những bất ổn xã hội không thể khắc phục, Liên
Xô luôn có xu hướng lấy các thành tựu quân sự làm bằng chứng cho tính ưu việt
của mình. Kết quả là họ đã đẩy chi phí quân sự lên đến 15% GDP, tập trung những
bộ óc tài giỏi nhất của đất nước cho các tham vọng quân sự và đẩy nền kinh tế
vốn đã khủng hoảng sâu sắc đi đến chỗ kiệt quệ. Sau này, Tổng thống Liên Xô
Mikhail Gorbachev đã phải thừa nhận rằng trong những năm 1986-1990, hiệu suất
gia tăng chi phí quân sự hằng năm đã tăng 8%, tức là gấp đôi hiệu suất tăng
trưởng của nền kinh tế.
Trong cuốn Những âm
mưu, sách lược của chính phủ Reagan làm tan rã Liên bang Xô Viết (NXB Công
an Nhân dân, 2004), tác giả Peter Schwecer đã kể lại việc Gorbachev nhận định
về “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” rằng Hoa Kỳ muốn “với cuộc chạy đua của
loại vũ khí không gian vừa hiện đại vừa đắt giá, sẽ đánh đổ nền kinh tế Liên
Xô”.
Và sự thực đã diễn ra đúng như thế. Cuộc chạy đua vũ trang
tốn kém với Hoa Kỳ đã “rút ruột” nền kinh tế Liên Xô, để chỉ tám năm sau khi
SDI được khởi xướng, Ronald Reagan đã có cơ hội được chiêm ngưỡng thành quả của
mình. Liên Xô vĩnh viễn nằm lại với lịch sử cùng với một thi thể kinh tế không
thể tiều tụy hơn.
Bảo vệ chủ quyền quốc
gia bằng vũ khí kinh tế
Nhận thức được tính chất “hai lưỡi” của con dao chạy đua vũ
trang, chính phủ các nước luôn tìm những giải pháp hài hòa giữa yêu cầu đối phó
với các thách thức an ninh với việc đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế. Ở
địa vị một nền kinh tế nghèo nàn và đang bộc lộ những bất ổn vĩ mô nghiêm trọng
như Việt Nam ,
câu chuyện chi tiêu quốc phòng lại càng phải được đặt trong những sự cân nhắc
thận trọng hơn.
Trong một lần phát biểu với báo chí, Đại tướng Phùng Quang
Thanh - Bộ trưởng Quốc phòng cũng thừa nhận: “Chúng ta có khả năng đến đâu thì
từng bước chúng ta sắm sửa đến đó nhưng với tinh thần là hết sức tối thiểu, với
khả năng cho phép của nền tài chính đất nước, không làm gì vượt quá. Đất nước
ta còn nghèo và chúng ta có rất nhiều vấn đề phải lo, nhất là những vấn đề đảm
bảo an sinh xã hội”.
Bằng cách gia tăng nội lực để củng cố vị thế quốc gia, Việt Nam có thể đảm
bảo các lợi ích trên biển của mình mà không bị cuốn vào vòng xoáy chạy đua vũ
trang và đứng trước nguy cơ kiệt quệ nền kinh tế. Lịch sử cho thấy rằng thất
bại của các quốc gia trong việc bảo vệ chủ quyền thường có nguyên nhân chính là
vấn đề nội tại hơn là tác động từ các yếu tố khách quan.