Wednesday, 30 January 2013

Phạm Duy nói về âm nhạc Việt Nam ngày ấy, bây giờ…


"Một trong những lý do khiến tôi duy trì được sức sáng tác là nhờ có vốn âm nhạc cổ truyền " - nhạc sĩ Phạm Duy cho biết. "Tôi xuất thân là thằng đi hát rong, hát nhạc cổ truyền để kiếm sống. Âm nhạc dân tộc đã nhập vào tôi từ hồi nhỏ... Tôi muốn khẳng định là chẳng thể nào trở thành nhạc sĩ của dân tộc nếu thiếu cái vốn về âm nhạc dân tộc".

Vì lý do thời cuộc, đại đa số người yêu nhạc trong nước cho dù có biết đến cái tên Phạm Duy, có nghe một số nhạc phẩm của ông, nhưng không nhiều người có dịp theo dõi một cách hệ thống toàn bộ cả sự nghiệp âm nhạc đồ sộ và phong phú của ông, từ thời khởi đầu tân nhạc cho đến khi người nghệ sĩ tóc đã bạc như cước muốn đi đến tận cùng chặng cuối của đời mình bằng Minh họa Kiều. 

Chương trình giới thiệu Kiều ca do tạp chí Xưa và Nay (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) và Hiệp hội UNESCO Hà Nội tổ chức vào ngày 2/1/2009 là lần đầu tiên Phạm Duy xuất hiện chính thức trước khán thính giả Hà thành, sau 46 năm xa cách.

Sinh năm 1921, Phạm Duy đã ở cái ngưỡng tuổi mà mỗi lần biểu diễn đều có thể không hứa hẹn lần tiếp sau. Và Minh họa Kiều cũng được người nghệ sĩ một đời “rong ca” này xem như nỗ lực cuối cùng trong sự nghiệp của mình. Sau vài ngày ở Hà Nội, Phạm Duy lại vội vã lên máy bay trở về Sài Gòn nắng ấm - sức khỏe không cho phép ông lưu lại thủ đô lâu trong cái lạnh u ám cuối đông. Về Sài Gòn, ông ở trong căn hộ riêng tại Quận 11 với con trai Duy Cường và con dâu, hàng ngày ông vẫn đọc báo, xem tivi (các kênh nước ngoài), vào mạng, và đêm đêm thức rất khuya sáng tác. Những sáng tác chưa biết đến bao giờ mới có dịp đến với công chúng.

Ông bảo: “Phương Nam (tức Công ty Văn hóa Phương Nam) vẫn xin phép đấy, nhưng mỗi năm chỉ có thêm vài bài hát của tôi được phép lưu hành thôi”. Con số quá nhỏ bé so với sự nghiệp hơn 1.200 ca khúc của Phạm Duy - một trong những nhạc sĩ có mặt từ thuở tân nhạc Việt Nam còn phôi thai.

Để hiểu ý nghĩa của sự ra đời tân nhạc (hay còn gọi là “nhạc cải cách”), chúng ta hãy biết rằng trước khi tân nhạc hình thành, Việt Nam mới chỉ có nhạc cổ truyền dân tộc và nhạc “Tây”. Từ những ca khúc lời Việt, nhạc “Tây”, nhờ sự tìm tòi mở đường của các nhạc sĩ trụ cột thời ấy như Đặng Thế Phong, Thẩm Oánh, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, Dzoãn Mẫn, Văn Cao, Phạm Duy…, tân nhạc đã tiến triển để chúng ta có nền âm nhạc Việt Nam như ngày nay.

Nhạc sĩ Phạm Duy năm 87 tuổi. Ảnh: Phong Quang. Chụp tại Sài Gòn sáng 23-11-2008.

“Ngày đó âm nhạc Việt Nam…”

* Người Việt Nam bây giờ bất kỳ ai và vào bất kỳ lúc nào đều có thể hát, hoặc nghe hát một ca khúc tiếng Việt nào đó - nhạc trẻ, nhạc đỏ, nhạc trữ tình, thậm chí nhạc thiếu nhi. Vậy, khi tân nhạc Việt Nam còn chưa hình thành, thì không khí âm nhạc của đất nước ra sao, ông có thể chia sẻ một vài hồi ức?

- Cho đến những năm 30 của thế kỷ trước, người Việt vẫn chưa… hát được, theo nghĩa là không có ca khúc tiếng Việt nào phổ thông và không biết đến việc nghe hay xem biểu diễn ca nhạc. Thời ấy người ta chỉ có thể đi xem hát chèo, ả đào, cải lương v.v. Muốn hát thì phải ghép lời vào các làn điệu dân ca và nhạc cổ truyền đó, làm thành các “bài hát theo điệu cổ”. Bên cạnh đó, để thỏa mãn nhu cầu “được hát”, một số người đã chế lời Việt vào cho các bài hát của Pháp, Mỹ, Ý, làm thành “bài ta theo điệu Tây”. Các ca khúc của phương Tây, đặt lời Việt, chẳng hạn C’est À Capri (Cánh bướm vườn xuân), Guitare D’amour (Cây đàn tình yêu), Goodbye Hawaii (Từ biệt người yêu)…, thời đó rất thịnh hành, và càng được thanh niên ưa thích thì càng làm mạnh mẽ thêm nhu cầu có thứ ngữ nhạc của riêng mình. Nhiều người bắt đầu mày mò học nhạc lý, tập chơi nhạc cụ, và viết ra những “đoản khúc” đầu tiên, nhưng dĩ nhiên là họ chưa dám công bố.

Hai bài hát “nhạc Việt lời Việt” đầu tiên được đưa ra biểu diễn trước công chúng, theo tôi, ra đời năm 1938. Đó là bài Bông cúc vàngMột kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, phổ thơ Nguyễn Quý Anh và Nguyễn Văn Cổn. Hai bài còn được đăng tải trên tờ Ngày nay - tuần báo có thế lực nhất thời gian này - của Tự lực Văn đoàn, tháng 8/1938. Sau đó thì đã có cả một phong trào sáng tác và biểu diễn “nhạc cải cách”. Tân nhạc Việt Nam hình thành như thế.  

* Có thể coi tân nhạc Việt Nam mở đầu bằng những ca khúc nào?

- Rất nhiều ca khúc. Những sáng tác thành công và có sức sống tới tận bây giờ thì có thể kể tới: Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bản đàn xuân (Lê Thương), Bóng ai qua thềm (Văn Chung), Biệt ly (Dzoãn Mẫn), Cô láng giềng (Hoàng Quý), Thu cô liêu, Buồn tàn thu, Cung đàn xưa (Văn Cao), Con thuyền không bến, Giọt mưa thu (Đặng Thế Phong), Xuân và tuổi trẻ (La Hối), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc) v.v. (*)

* Đặc điểm của âm nhạc Việt Nam, nói chính xác hơn là tân nhạc Việt Nam, thời ấy, theo ông, như thế nào?

- Thời đó nổi lên hai xu hướng sáng tác: nhạc hùng và nhạc tình. Nhạc hùng là những ca khúc vui vẻ, xoay quanh chủ đề niềm vui sống và lòng ái quốc, như Sáng rừng của Đặng Thế Phong, Anh em khá cầm tayGò Đống Đa của Văn Cao.

Nhạc tình là nhạc lãng mạn. Chúng tôi sáng tác, về nhạc thì đều chịu ảnh hưởng nhạc cổ điển hoặc tân kỳ phương Tây, về phần lời thì thường có một số mô típ chung như: mùa thu, mùa đông, lá vàng, hoa tàn, nỗi sầu bi hay cô đơn… Ví dụ Thu cô liêu (Văn Cao), hay Biệt ly (Dzoãn Mẫn). Hai bài ca cải cách đầu tiên - Bông cúc vàng, Một kiếp hoa - cũng đều chứa đựng tâm trạng u sầu, “hoa tan tác, lòng ta tan tác”…

* Ông có thể mô tả “lược sử” của sự phát triển tân nhạc sau này?

- Tân nhạc Việt Nam đã manh nha hình thành từ trước khi Nguyễn Văn Tuyên công bố hai bài hát Bông cúc vàngMột kiếp hoa (năm 1938). Nó chính thức lớn mạnh thành một phong trào kể từ đó và đã để lại nhiều ca khúc kinh điển, có sức ám ảnh lay động con tim, như bộ ba ca khúc thu nổi tiếng của Đặng Thế Phong, hay những bản nhạc tuyệt đẹp của Văn Cao.

Khi cách mạng về, rồi kháng chiến bùng nổ, văn nghệ sĩ đi theo cách mạng và đã có rất nhiều ca khúc phản ánh một thời kỳ hào hùng - cả nước lên đường, cả nước đi chiến đấu vì nền độc lập tự do. Tiếc thay, càng về sau, âm nhạc càng trở thành nạn nhân của thời cuộc: chiến tranh, mâu thuẫn chính trị, lòng người chia rẽ… Tóm lại, đó là một thời loạn lạc. Chúng ta đã không có một khoảng thời gian yên bình để nghe và yêu nhạc, trong khi âm nhạc rất cần điều đó.

Ngày 28/4/1975, tôi sang Mỹ. Qua đó định cư, tôi vẫn theo dõi tình hình âm nhạc nước nhà và biết là có một thế hệ nhạc sĩ tài năng, một số nhạc sĩ như Trần Tiến, Nguyễn Cường đã dụng công kết hợp chất liệu dân tộc vào âm nhạc của mình để cho ra nhiều ca khúc được ưa thích.

Còn với nền âm nhạc Việt Nam hiện nay, tôi không muốn lạm bàn, vì tôi mới về định cư ở Việt Nam từ năm 2005, cũng ít nghe nhạc trẻ Việt bây giờ. Nhưng có thấy báo chí phàn nàn về nhiều bài mà cả giai điệu và ca từ đều lẩm cẩm.

Tính dân tộc như một bí quyết để sáng tác

* Sự hòa quyện giữa tính dân tộc và tính hiện đại là điều dễ nhận ra trong đa số các ca khúc của ông. Điều đó hình thành một cách tự nhiên?

- Tôi là người Hà Nội, sinh ra ở phố Hàng Dầu gần Hồ Gươm, nhưng từ năm lên 9-10 tuổi, tôi đã hay có dịp về thôn quê sống với gia đình một người vú nuôi. Thời gian gắn bó với nông thôn khá nhiều, ngoài ra cũng có thể do có khiếu “hay nghe hay nhớ”, nên tôi tiếp thu dân ca, nhạc cổ truyền Việt Nam và đặc biệt là thấm cái “hồn dân tộc” rất nhanh. Có lẽ vì thế mà trong khi các nhạc sĩ trẻ tuổi cùng thời dễ bị hấp dẫn bởi sự hoành tráng của âm nhạc phương Tây cổ điển và hiện đại, thì tôi dễ dàng chọn ở lại cùng dân ca hơn.

Nếu không có tình cảm đối với đồng quê Việt, chưa chắc tôi đã dựng nên được trong ca khúc của mình những hình ảnh “như gió thu sau tháng hè thổi về ruộng nâu lúa tươi xanh rì” (Người về), hay “cô nàng gánh lúa cho anh ra đi diệt thù” (Nhớ người thương binh). Tôi gọi bài Nhớ người thương binh, sáng tác năm 1947, là Dân ca mới. Đó là thành công đầu tiên của tôi trong việc thử nghiệm soạn nhạc, lấy tứ từ dân ca và cảm hứng từ đời sống người dân. 

Càng theo kháng chiến, chứng kiến cuộc sống, lòng tự hào dân tộc và yêu nước của toàn dân, tôi càng quyết tâm đi theo con đường dân ca mới thay vì nhạc cổ điển hay hiện đại của phương Tây.

* Nhạc dân tộc có ý nghĩa như thế nào đối với ông?

- Một trong những lý do khiến tôi duy trì được sức sáng tác là nhờ có vốn âm nhạc cổ truyền. 22 tuổi, tôi bước vào đời, tham gia một gánh hát rong. Có thể nói tôi xuất thân là thằng đi hát rong, hát nhạc cổ truyền để kiếm sống. Âm nhạc dân tộc đã nhập vào tôi từ hồi nhỏ.

Theo tôi, không nhạc sĩ nào thành công trong ý muốn tạo một cái gì đó đúng với ngôn ngữ dân tộc và thời đại mà lại bỏ qua các giá trị của âm nhạc dân tộc. Tôi muốn khẳng định là chẳng thể nào trở thành nhạc sĩ của dân tộc nếu thiếu cái vốn về âm nhạc dân tộc.

(Còn tiếp)
  • Nguyễn Hoàng Linh - Đoan Trang thực hiện

(*) Nhạc sĩ Phạm Duy cũng góp phần vào nền tân nhạc thời kỳ đầu với ca khúc đầu tay là Cô hái mơ, sáng tác năm 1942, phổ thơ Nguyễn Bính.

Saturday, 26 January 2013

Ngôn ngữ nghị trường - chuyện nhỏ mà không nhỏ


Chuyện xưng hô trong các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội cũng như ngôn ngữ tại nghị trường chứa đựng nhiều sự nhầm lẫn về tư cách và địa vị của những người tham gia.

Từ cách gọi “đồng chí”

“Đồng chí” là một danh từ phổ biến trong sinh hoạt nghị trường ở Việt Nam và gần như trở thành từ xưng hộ cửa miệng trong các giao tiếp công việc.

Đơn cử, ngày 12-11-2012, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng phát biểu trong kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII: “Về sửa Nghị định 84 như chúng tôi đã báo cáo, Thủ tướng Chính phủ mà trực tiếp là hai đồng chí Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và Vũ Văn Ninh vào cuộc họp tháng 7 vừa qua đã nghe Bộ Tài chính và Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ báo cáo việc thực hiện Nghị định 84. Qua nghe tình hình báo cáo hai đồng chí Phó Thủ tướng đã có kết luận”.

Hoặc phát biểu ngày 15-11 của đại biểu Bế Xuân Trường (tỉnh Bắc Kạn): “... Đảng lãnh đạo quân đội trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, đồng chí Tổng bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương, điều này đã được ghi trong Điều lệ Đảng. Còn đồng chí Chủ tịch nước trên cơ sở lãnh đạo tập thể, phát huy vai trò của cá nhân, chịu trách nhiệm trước tập thể về nhiệm vụ này, như vậy nội hàm của Chủ tịch nước với lực lượng vũ trang là gì?”.

Theo bản gỡ băng thảo luận tại hội trường Quốc hội sáng 12-11 được Văn phòng Quốc hội công bố, có 41 lần từ “đồng chí” được các đại biểu cũng như quan chức Chính phủ sử dụng. Thậm chí tại phiên làm việc của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội sáng 24-4, từ này cũng được sử dụng đến 154 lần.

Vậy từ “đồng chí” có từ bao giờ và ý nghĩa của nó ra sao? Trong tiếng Anh, “đồng chí” là  comrade, về ngữ nghĩa có thể hiểu là người bạn, đồng nghiệp hoặc đồng minh. Theo từ điển Wikipedia, những từ có ý nghĩa tương tự được những người theo phong trào xã hội chủ nghĩa ở châu Âu sử dụng từ giữa thế kỷ XIX nhằm thay thế cho các từ truyền thống thời đó như Mister (quý ông), Miss (quý cô), Missus (quý bà) trong cách xưng hô. Lần đầu tiên từ comrade xuất hiện trong tiếng Anh với nghĩa tương tự là trên tạp chí Justice (Công lý), xuất bản năm 1884.

Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2006 của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “đồng chí” là “người cùng chí hướng chính trị, trong quan hệ với nhau”, “từ dùng trong Đảng Cộng sản để gọi đảng viên”, “từ dùng trong xưng hô để gọi một người với tư cách là đảng viên cộng sản, đoàn viên một đoàn thể cách mạng hoặc công dân một nước xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là cách hiểu và cách sử dụng phổ biến của từ này trên thế giới.

Với ý nghĩa như vậy, việc sử dụng từ “đồng chí” ở diễn đàn Quốc hội là không hợp lý. Chỉ cần nhìn vào tỉ lệ biểu quyết các dự án luật ở Quốc hội là biết họ không “cùng chí hướng” với nhau, khi luôn có một tỉ lệ từ vài phần trăm đến vài chục phần trăm số đại biểu có ý kiến khác với phần còn lại. Có những vấn đề gây tranh cãi tại Quốc hội như dự án bauxite Tây Nguyên, dự án điện hạt nhân, dự án đường sắt cao tốc. Có dự án được thông qua hoặc bị bác bỏ. Bên cạnh đó, Quốc hội có một tỉ lệ đáng kể đại biểu là người ngoài Đảng, chiếm khoảng 10% vào thời điểm công bố kết quả bầu cử. Vì vậy, dùng ngôn ngữ chính trị của Đảng với họ là không hợp lý. Mặc dù tìm kiếm sự đồng thuận là bản chất của hoạt động chính trị, nhưng diễn đàn Quốc hội là nơi thảo luận, tranh luận giữa những người được dân bầu để tìm ra các quyết sách đúng cho đất nước. Đã là thảo luận, tranh luận thì bao giờ cũng có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.

Đại biểu Quốc hội hay đảng viên?

Sự nhầm lẫn giữa diễn đàn Quốc hội với các diễn đàn khác cũng xảy ra trong nhiều trường hợp khác, đặc biệt là các cuộc tiếp xúc cử tri. Nó cũng không chỉ xảy ra với các đại biểu Quốc hội, mà còn xảy ra với các cử tri.

Tại nhiều cuộc tiếp xúc cử tri, các tấm pa-nô, áp-phích đều “nhiệt liệt chào mừng đồng chí bí thư”, “nhiệt liệt chào mừng đồng chí chủ tịch”. Trong các phát biểu, các chức danh này cũng được sử dụng, thay vì gọi đúng tư cách của họ là đại biểu Quốc hội.

Ngày 1-12-2012, cử tri Nguyễn Khắc Thịnh (phường Giảng Võ - Hà Nội) đã chất vấn đại biểu Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tại cuộc tiếp xúc cử tri: “Nghị quyết Trung ương 4 nói một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái. Xin đề nghị Tổng bí thư làm rõ một bộ phận không nhỏ ấy nằm ở đâu?”.

Tại nhiều cuộc tiếp xúc cử tri khác, những cụm từ như “kính thưa đồng chí Chủ tịch nước”, “đề nghị Thủ tướng Chính phủ”, “xin đồng chí Bí thư”,... được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.

Điều này phản ánh một sự nhầm lẫn cơ bản về tư cách của người tiến hành tiếp xúc cử tri. Đứng trước các cử tri khi đó, không có ai là Tổng Bí thư, không có ai là Chủ tịch nước, không có ai là Thủ tướng, và không có ai là Bí thư. Họ chỉ có một tư cách duy nhất là đại biểu Quốc hội, đi gặp cử tri để báo cáo kết quả làm việc, trả lời các chất vấn và lắng nghe ý kiến của cử tri. Ít khi thấy có ai đó gọi họ cho đúng danh phận là đại biểu Quốc hội Nguyễn Tấn Dũng, đại biểu Quốc hội Trương Tấn Sang, đại biểu Quốc hội Lê Thanh Hải,...

Thể hiện bản chất của hệ thống chính trị

Thói quen xưng hô nói trên không đơn thuần là vấn đề giao tiếp. Nhìn vào lịch sử và bản chất hệ thống chính trị Việt Nam, chúng ta thấy rằng cách xưng hô này phản ánh những vấn đề đáng lưu ý hơn nhiều.

Sự nhầm lẫn về tư cách đại biểu Quốc hội và tư cách quan chức của Đảng có căn nguyên chính trị và căn nguyên lịch sử. Hệ thống chính trị ở miền Bắc Việt Nam kể từ năm 1954 và trên cả nước từ 1975 do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điều này diễn ra trên thực tế và được thể chế hóa tại các bản Hiến pháp 1980 và 1992. Điều này dẫn đến hai hiện tượng: Đảng làm thay Nhà nước và các quan chức bên phía Nhà nước cũng đồng thời là quan chức bên Đảng.

Trong thời kỳ 1954-1975, các quyết sách lớn đều trực tiếp từ Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, chứ không phải đến từ Chủ tịch nước hay Hội đồng Quốc phòng hay Bộ Quốc phòng. Lịch sử ghi nhận Nghị quyết 15 tháng 1-1959 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã vạch ra phương pháp đấu tranh thống nhất đất nước, chứ không phải một đạo luật hay sắc lệnh nào do Quốc hội hay Chủ tịch nước ban hành. Cho đến 1975, các quyết định liên quan đến chiến trường cũng được quyết định bằng các nghị quyết của Bộ Chính trị. Các nghị quyết này được trực tiếp phổ biến đến các chiến trường.

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, tình trạng Đảng làm thay Nhà nước tiếp tục diễn ra. Hai quyết định quan trọng về kinh tế thời kỳ đó là Khoán 100 và Khoán 10, thực chất là Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị tháng 4-1988 về khoán trong nông nghiệp.

Cho đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, hoạt động lập pháp của Quốc hội mới bắt đầu thể hiện rõ hơn vai trò của mình trong đời sống chính trị, với việc thông qua nhiều đạo luật quan trọng như Bộ Luật Hình sự (1985), Luật Hôn nhân và Gia đình (1986), Luật Đất đai (1987), Luật Đầu tư Nước ngoài (1987),... và dần dần thể chế hóa các quyết định chính trị của Đảng.

Cho đến nay, nhiều quan chức Chính phủ khi bị chất vấn tại Quốc hội đã trả lời rằng “vấn đề này đã báo cáo với tổ chức Đảng” để né tránh vấn đề và né tránh trách nhiệm. Bên cạnh đó, có đến 90% số đại biểu Quốc hội đồng thời là đảng viên. Tất cả những đặc điểm này của hệ thống chính trị khiến cho ranh giới giữa diễn đàn của Đảng và diễn đàn Quốc hội trở nên mờ nhạt, dễ phát sinh sự nhầm lẫn, tâm lý “phiên phiến”.

Mặt khác, việc cử tri gọi các đại biểu của mình là Chủ tịch nước, Thủ tướng, là Bộ trưởng, là Chủ tịch cũng thể hiện một hiện tượng khác, đó là một người vừa là đại biểu Quốc hội, vừa là quan chức hành pháp. Điều này khiến cho nhiều người đặt câu hỏi: Các vị ngồi ở diễn đàn Quốc hội với tư cách gì?

Cần rạch ròi tư duy

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự rạch ròi cần thiết phải có trong quan hệ giữa Đảng và chính quyền, cũng như sự rạch ròi cần thiết giữa các nhánh quyền lực trong nội bộ chính quyền. Đó là Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước vì vi phạm nguyên tắc pháp quyền, đó là đại biểu Quốc hội không được kiêm nhiệm chức danh hành pháp vì lý do xung đột lợi ích.

Nguyên tắc pháp quyền chỉ cho phép ý chí chính trị của các cá nhân, đảng phái được thực thi trên thực tế thông qua các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và không được can thiệp vào các quyết định của chính quyền. Điều này được các lãnh đạo Đảng nhắc đến nhiều lần, tuy nhiên hiệu quả thực thi còn là điều phải đánh giá thận trọng.

Mặt khác, sự phân công, phân nhiệm giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong thiết kế bộ máy nhà nước chúng ta hiện nay còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Khi là một đại biểu của dân, có nghĩa là người đó phải dùng quyền lực được dân trao cho để tác động và giám sát việc thực thi pháp luật của các quan chức hành pháp và tư pháp. Vậy thì hóa ra vị Bộ trưởng kiêm đại biểu Quốc hội sẽ phải tự giám sát chính mình, đồng thời, khi ngồi ở diễn đàn Quốc hội, có lúc ông ta là đại biểu Quốc hội, có lúc lại là Bộ trưởng. Ông ta sẽ đứng về phía ai, Chính phủ hay Quốc hội trong phiên chất vấn của mình?

Rõ ràng sự nhầm lẫn về cách xưng hô không chỉ là vấn đề giao tiếp, mà còn phản ánh sự thiếu rạch ròi trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, và giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam sẽ khó có thể thực hiện được, nếu không giải quyết triệt để vấn đề này. 

TRỊNH HỮU LONG
(http://blog.trinhhuulong.com/2012/12/ngon-ngu-nghi-truong-chuyen-nho-ma.html)

Saturday, 12 January 2013

Dân vận và địch vận


Bình luận của một Facebooker: "Xưa các cụ tranh thủ cả lòng dân lẫn lòng địch. Ngày nay, các cụ có xu hướng biến dân thành địch, biến địch thành bạn vàng. Vẫn biết ngày nay quan hệ quốc nội cũng như quốc tế thay đổi dần theo hướng đối thoại, hợp tác thay vì phân định địch-ta, nhưng các cụ lại đi ngược mẹ nó mất. Các cụ thích tạo ra kẻ thù, dựng lên đủ các loại thế lực thù địch. Chỉ cần ai đó khác các cụ là thành thù địch hết". 

Còn câu chuyện dân vận và địch vận ngày xưa, thưa các bạn, nó như thế này...

* * *

Dân vận…

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng sản nhận thức rất sớm vai trò của dân vận. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Với tinh thần đó, công tác vận động tuyên truyền của Đảng Cộng sản ngay từ thời Mặt trận Việt Minh đã rất tốt. Trước và sau ngày khởi nghĩa cướp chính quyền tại Hà Nội (19-8-1945), người dân nô nức tham gia Việt Minh và mong muốn được trở thành đảng viên cộng sản. Bà Lê Thi tức Dương Thị Thoa, con gái cố Giáo sư Dương Quảng Hàm, còn kể lại rằng: “Hồi đó hầu như ai ai cũng ghi danh xin đăng ký vào một tổ chức nào đó của Việt Minh, như là Thanh niên Cứu Quốc, Phụ nữ Cứu Quốc. Tới lúc nghe tin Đảng Cộng sản phải tự giải tán, chúng tôi còn khóc nức nở”.

Ảnh tư liệu

Tháng 12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Người dân ở đô thị thực hiện sơ tán về nông thôn để tránh thiệt hại, bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài. Khi đi sơ tán, một số gia đình khá giả ở nội thành đã đem theo ô-tô riêng. Vì không nắm vững chủ trương chính sách nên một số đơn vị và địa phương đã tự ý trưng thu, trưng dụng xe cộ của dân. Trước tình hình đó, ngày 17-2-1946, Cục Chính trị ra Thông tri gửi toàn quân, trong đó nhấn mạnh phải làm theo đúng khẩu hiệu “vì dân và cùng dân kháng chiến”. Thông tri nêu rõ: “Chỉ cần thiết lắm mới dùng đến quyền hạn trưng thu, trưng dụng, trưng tập, nhưng cách dùng quyền hạn đó sao cho khéo léo, được việc chung mà dân chúng không bất bình”, “Nghiêm trị những kẻ lợi dụng làm bậy phá hoại công tác bảo vệ dân chúng của chúng ta”.

Ngày 8-1-1947, Cục Chính trị tiếp tục ra chỉ thị về công tác dân vận, trong đó nhấn mạnh: “Cho bộ đội hành quân tuyên truyền cổ động kháng chiến; úy lạo dân về sự tàn phá do Pháp gây ra ở nơi đã xảy ra và nơi chưa xảy ra; công tác giúp dân phòng máy bay; giải thích cho dân cần giữ bí mật và đề phòng Việt gian; dạy dân học chữ quốc ngữ, tập quân sự…”.

Ở đây, điều cần nói là phương tiện kỹ thuật của chúng ta thời đó cực kỳ kém; các hình thức tuyên truyền chỉ là mít tinh, diễn thuyết, ca kịch, bích báo, được thực hiện bởi bộ đội hành quân hoặc các tổ nhóm văn nghệ văn công. Nhưng hiệu quả thì lại không hề nhỏ. Công tác vận động tuyên truyền ngày ấy, cộng với tinh thần hăng hái của một dân tộc vừa mới giành được độc lập, thậm chí đã tạo ra một phong trào “cả nước lên đường”. Một trong những văn nghệ sĩ tham gia vào hoạt động tuyên truyền bằng lời ca tiếng hát thời kỳ ấy, nhạc sĩ Phạm Duy, hồi tưởng rằng: “Từ tháng 8-1945, tôi đã thấy không khí bừng bừng của Cách Mạng kéo nhân dân cả nước ra đường. Từ đêm 19 tháng Chạp 1946 trở đi, tôi thấy không khí rừng rực của kháng chiến đẩy toàn thể nhân dân ra đi”. “Ra đi” nghĩa là cả nước lên đường tranh đấu, tham gia “cuộc phiêu lưu của một dân tộc đang thay thịt đổi da, đang xuống đường, lên đường trong tất cả ý nghĩa tuyệt vời của những danh từ đó”.

Việc dân vận tuân theo chủ trương phải kết hợp chặt chẽ với giúp đỡ dân (dạy chữ quốc ngữ, phòng máy bay). Bộ đội được yêu cầu thực hiện tốt khẩu hiệu “Kính trọng dân, bảo vệ dân, giúp đỡ dân”.

… và địch vận

Bên cạnh dân vận, địch vận cũng được Đảng và Chính phủ xem là phần quan trọng trên mặt trận chính trị, theo tinh thần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng địch càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng địch là nhờ địch vận”.

Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ nhất (tháng 3-1935), nghị quyết về công tác địch vận đã cho thấy sự quan tâm và thấu hiểu của những nhà lãnh đạo cộng sản đối với tình cảnh của binh lính người Việt ở Đông Dương: “Binh lính là tôi tớ của quan binh; chúng nó có quyền đánh đập, giam phạt lúc nào cũng được… Họ không có quyền tổ chức vào các đoàn thể cách mạng, không có tự do ngôn luận, hội họp, tham gia sinh hoạt chính trị”. Từ thời điểm đó, Đảng đã có một nhận định nhân văn và sáng suốt: Binh lính không phải là nghịch thù của giai cấp công nông, mà là con em của công nông và là một lực lượng cách mạng rất lớn, nếu Đảng không tổ chức được họ, không kéo được họ về phía mình, thì cách mạng sẽ không thể thành công.

Tinh thần này đã là kim chỉ nam cho các hoạt động địch vận về sau trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Chẳng hạn, đối với binh lính người Việt chiến đấu trong hàng ngũ đối phương, Đảng chủ trương huy động ở mức cao nhất tất cả những hoạt động tuyên truyền: hô khẩu hiệu khi chiến đấu, ném truyền đơn, viết và dán biểu ngữ, dùng lính địch gọi hàng đồng đội v.v. Đặc biệt, phải biệt đãi tù binh, coi đó là một nhiệm vụ của công tác chính trị, thậm chí ra nghiêm lệnh cho bộ đội không được giết tù binh.

Đối với hàng binh người Âu, Đảng cũng chủ trương phải chăm sóc chu đáo, giao cho họ những việc thích hợp với năng lực để tận dụng khả năng của họ, giác ngộ chính trị cho họ để tạo ra một lực lượng “bộ đội ngoại quốc” chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam… Với chính sách này, trong những năm kháng chiến chống Pháp, đã có những người châu Âu đảo ngũ sang phía Việt Minh và rồi thật sự trở thành người bạn của Việt Nam.

* * *

Nhìn lại, công tác dân vận, địch vận thực sự đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Mục tiêu “ba đoàn một tan” (đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, làm tan rã kẻ thù) đã chứng tỏ là một chính sách sáng suốt, đồng thời cũng khẳng định một bài học có tính chất chân lý: Những nhà lãnh đạo hết lòng vì đại đoàn kết dân tộc, lấy thu phục nhân tâm làm trọng, sẽ có được sự ủng hộ của nhân dân trong cuộc đấu tranh với bất kỳ kẻ thù nào.