Mô típ
“chúng ta nói gì với con cháu chúng ta” hẳn là đã được sử dụng nhiều trong văn
học, sách báo, phim ảnh. Như nhà văn Phan Tứ (1930-1995) viết trong tiểu thuyết
nổi tiếng “Mẫn và tôi” về tình yêu thời chiến tranh: “Bầy cháu nội ngoại sẽ
nghe tôi kể: “Ông gặp bà giữa hồi núi sụp rầm rầm, nước dâng như chưa hề ghi
trong sử sách…”. Chúng cười khì, tưởng tôi mượn chuyện thời vua Hùng. (…) Đành
vậy, lớn lên chúng sẽ biết, sẽ nhớ. Tôi phải giúp chúng nhớ. Đừng để những bông
hoa mai sau tự rứt mình ra khỏi cây vì không muốn dính dáng với bầy rễ cắm vào
bùn”.
“Phải
không em, Mẫn, dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình
lại gặp nhau; có phải lúc này em đang quấn quít bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ
đẩy ngón tay đặt nên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể
rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon, và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa
dòng?”.
Nghe nhà văn
viết những dòng thủ thỉ, thấy tình yêu của hai nhân vật chính – Mẫn và Thiêm –
sao mà đẹp đến lý tưởng. Đúng là cuốn tiểu thuyết “một thời khuấy động hàng
triệu con tim” thanh niên miền Bắc, cũng chẳng khác gì “những nhạc phẩm
lừng danh của Trịnh Công Sơn”, “đầy phẫn nộ, khát khao cho một niềm hy
vọng chung của cả dân tộc”… (*)
Lũ nhà báo
bây giờ sau này kể lại cho con cháu nghe chuyện làm báo của mình thời nay, sợ
rằng không được đẹp, oai hùng như thế. Nó thảm hại hơn nhiều, lố bịch hơn
nhiều, hèn nhát hơn nhiều…
* * *
Nó là câu
chuyện của những nhà báo hễ xuất hiện ở điểm nóng nào là chỉ đi cùng “lực lượng
chức năng”, áo nhiều túi, máy ảnh trước ngực, vẻ mặt nghiêm trọng. Cũng là câu
chuyện của những phóng viên về Văn Giang lúc xế chiều để chứng kiến một cánh
đồng tung tóe, cây cối đổ nát nghiêng ngửa. Dân quê thấy người lạ vào, chẳng ai
buồn ngẩng lên, vẫn cắm cúi đào bới, nhặt nhạnh, xúc, đổ đất… Nhưng đến khi
thấy “người lạ” lúi húi lấy máy ghi âm, sổ và bút ra, thì họ vây lấy, thẫn thờ:
“Sao đến giờ nhà báo mới về? Mất rồi. Mất hết rồi!”.
Rồi họ nhất
định kéo nhà báo vào nhà, để họ pha trà, mời nước, và nghe họ kể lể chuyện “mất
hết rồi”. Hàng xóm lục tục kéo đến, người nào cũng phải xán lại, nhìn, chạm tay
vào áo khách một cái, khẩn khoản: “Nếu nhà báo giúp được chúng tôi đòi lại
được đất, thì chúng tôi mang ơn nhà báo suốt đời”. Màn đêm buông xuống,
trai tráng trong làng rầm rập đưa xe máy hộ tống nhà báo về. Người dân nông
thôn bao giờ cũng vậy, họ có thể khôn ngoan hay thực dụng, nhưng vẫn có cái
hồn hậu chất phác – nên không để ý thấy nhà báo đang cúi gằm mặt rời
khỏi hiện trường.
Và từ ấy,
ngày nào họ cũng ngong ngóng ra bưu điện huyện, chờ xem có báo nào đưa tin,
viết bài “về xã mình” không. Những mảnh báo hiếm hoi nhắc đến vụ việc của làng
họ được photocopy ra hàng chục bản, và truyền tay nhau nhiều quá, đã nát ra rồi…
Những bức ảnh chân thực nhất về vụ cưỡng chế ở Văn Giang
có xuất hiện đầu tiên trên báo chí không?
có xuất hiện đầu tiên trên báo chí không?
Không, hoàn toàn là từ mạng xã hội và blog. Vì sao thế hả Ban Tuyên giáo?
* * *
Họ không
nhìn thấy cảnh nhà báo phóng xe máy rời làng, đầu cúi gằm. Họ cũng không biết
đến chuyện, có những lần, nhà báo về làng khi trời vẫn còn chưa tối. Trên đường
đi, dưới ánh hoàng hôn, cây lá trong vùng vẫn xanh biếc như thế, triền đê vẫn
mườn mượt cỏ, gió vẫn lồng lộng, và nhà báo dở hơi bỗng nghĩ tới lời thề của
danh tướng Trần Quốc Tuấn thời xưa: “Trận này không phá xong giặc Nguyên,
quyết không về bến sông này nữa”. Thì chúng cháu cũng vậy, Cụ ạ! Chúng cháu
cũng muốn đứng trên đê, nhìn xuống cánh đồng xanh mượt mà thề: “Chuyến này
không đăng được bài, quyết không về chốn này nữa”. Nhưng nói vậy thôi,
chúng cháu sao dám gở miệng như thế - vì chúng cháu hiểu, sẽ còn nhiều, rất
nhiều những vụ cưỡng chế đất đai, những bạo lực, đổ máu, hận thù, bất mãn… mà
nếu còn nghĩ tới chuyện làm báo thì còn phải chứng kiến, và viết. Không ở đây
thì cũng ở nơi khác mà thôi.
Những người
dân quê chất phác. Họ chẳng biết gì tới sự căng thẳng của ban biên tập, nỗi dằn
vặt của phóng viên. Họ cũng chẳng biết đến Internet, cùng những cuộc cãi vã xô
xát trên đó, bảo rằng họ tham lam, đã nhận tiền rồi nay thấy ít nên lại đòi
tăng, rằng họ bất mãn nên bị bọn phản động lợi dụng, rằng cưỡng chế đất đai là
việc không thể tránh khỏi trên con đường phát triển của Việt Nam (chuyển đổi cơ
cấu sản xuất từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tóm lại là “công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”).
Họ càng
không biết tới Hiến pháp, tới bài toán phát triển kinh tế của đất nước – toàn
những thứ vĩ mô đến thế. Họ chỉ biết vào cái buổi sáng hôm ấy, hàng chục xe cam
nhông, xe tải chở lính, đã bò như cua vào thôn làng họ, và họ bị xô đẩy, dồn
ra ngoài cái mảnh đất cho đến rạng sáng vẫn còn là của họ trong tiếng loa oang
oang nhắc nhở: “Không phận sự miễn vào”. Không chống lại được thì họ phản ứng, họ chửi, khóc, ngồi bệt, rồi lăn cả ra đấy, uất ức như những đứa trẻ
bị cướp đồ ăn.
Lúc ấy, ai
còn dám lý luận với họ về những vấn đề cao siêu, ví dụ, về sự cần thiết phải
chuyển đổi mục đích sử dụng đất?
Nhưng nếu
đặt câu hỏi ngược lại, rằng giả sử cuộc cưỡng chế diễn ra căng thẳng và khốc
liệt, rồi một nhân viên công vụ bị đánh trọng thương, máu me be bét, lực lượng
cưỡng chế buộc phải rút lui trong thất bại, thì có ai vui mừng hả hê với chiến
thắng của “phe nhân dân” không? Câu trả lời, với những người làm báo nghiêm
túc, sẽ là không. Đơn giản bởi vì người ta ai cũng xương cũng thịt. Ai cũng là
tinh cha huyết mẹ mà thành.
Báo chí
không thể ủng hộ, cổ vũ bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào. Một điều mà các nhân
viên an ninh ít chữ rất hay muốn làm rõ là “Anh/chị viết bài vì động cơ gì?”.
Họ không hiểu rằng với nhà báo, sự thật là tối thượng, và nếu có thể gọi đấy là
“động cơ”, thì nhà báo chỉ có động cơ duy nhất là phản ánh sự thật. Đôi khi,
một nhà báo viết hết, phản ánh hết – đúng 100% - những gì một bên đưa ra (ý
kiến, bằng chứng…), mà vẫn là không chấp nhận được. Bởi vì như vậy là không đủ
khách quan, công bằng: Mọi bên đều phải có cơ hội thể hiện quan điểm như
nhau.
Nếu dân sai
thì ngay cả có bị dí súng vào đầu bắt viết “vu vạ” cho công an, người làm báo
cũng không viết. (Ở đây, phải giới hạn là không phải tất cả các nhà báo đều như
nhau, ngoài ra, nhiều khi họ không viết xấu về chính quyền không phải vì tôn
trọng sự thật khách quan, mà là vì không đủ bằng chứng, hoặc vì sợ bị trừng
trị). Ngược lại, nếu chính quyền sai thì dù có cố đến đâu cũng khó lòng bênh
nổi.
Ai đó đã nói
về “chiến dịch” đưa tin của báo chí trong và sau các vụ Tiên Lãng, Văn Giang
như sau: “Một cuộc vật lộn để được nói sự thật”. Thực tế còn hơn thế
nữa: Một cuộc vật lộn để được biết sự thật, để được viết sự thật, và để được
khách quan (tất nhiên cũng chỉ dám mong ở mức độ tương đối). Thế mà, cho đến
giờ, cái đích ấy vẫn chưa đạt được.
* * *
Chuyện đất
đai và “tam nông” ở Việt Nam năm 2012 được đánh dấu bằng hai vụ cưỡng chế điển
hình tai tiếng: Tiên Lãng (5/1) và Văn Giang (24/4).
37 năm sau
ngày thống nhất đất nước. Hơn nửa thế kỷ sau cải cách ruộng đất. 67 năm sau
ngày thành lập nước. Sáu thế kỷ sau thời kỳ tích lũy tư bản nguyên thủy ở
phương Tây. Bước vào thời đại toàn cầu hóa, hội nhập, ở Việt Nam, vẫn còn diễn
ra những cuộc cưỡng chế đất đai nhốn nháo, tiếng la hét chửi bới của dân lẫn
trong khói hơi cay và tiếng oàng oàng chói tai của “quả nổ nghiệp vụ”.
Tệ hơn nữa
là chuyện ấy lại diễn ra cùng với đây đó những mệnh lệnh (miệng) yêu cầu báo
chí “hạn chế đưa tin”, và những cuộc tranh cãi ầm ĩ, đầy ngụy biện, trên mạng,
về quan tham, dân gian và bọn báo chí lề phải, blogger lề trái ngu dốt, phản
động.
“Các bạn trẻ ạ, ngày xưa chúng tôi làm báo thế đấy”.
(*) Lời giới thiệu album "Sơn Ca 7" của Khánh Ly - Trịnh Công Sơn