Nét
mặt hiền từ, cử chỉ lịch lãm và phong cách ăn mặc nền nã, đặc biệt giọng nói ấm
và vang dù đã ngoài 80 tuổi, bà gợi cho người ta thấy ngay hình ảnh một đào
nương ca trù Hà Nội xưa. Bà là Phó Kim
Đức, đào nương nổi tiếng ở phố Khâm Thiên thời kỳ 1943-1945.
Khi được hỏi về “sinh hoạt cô đầu ở phố
Khâm Thiên” những năm thuộc Pháp, bà Kim
Đức tỏ vẻ không vui. Khâm Thiên thời ấy nổi tiếng là khu phố cô đầu, tối tối đỏ
đèn với các canh hát ả đào, nơi cả cô đầu hát
lẫn cô đầu rượu cùng phục vụ khách – người thì bằng tiếng hát, người thì bằng nhan sắc…
Sinh
năm 1931, bà Kim Đức hồi đó mới chỉ là một cô bé 12-13 tuổi, nhưng đã là một
đào nương có tiếng, nói theo ngôn ngữ thời nay là rất “đắt sô”. Nhà bà ở số 89
Khâm Thiên, nghĩa là ngay giữa con phố cô đầu đặc trưng của Hà Nội. Bà sinh ra
trong một gia đình có nòi ca trù (bố là nghệ nhân Phó Đình Ôn, từng là quản
giáp của một giáo phường danh tiếng), được bố dạy hát dạy đàn từ năm lên 7.
Thêm năng khiếu trời cho, 12 tuổi bà đã cùng anh trai Phó Đình Kỳ đi biểu diễn
ở khắp các nhà hát trong phố. Tiếng hát, giọng phách trong vắt, đầy mê hoặc của
bà nhanh chóng chinh phục được quan khách nên chẳng bao lâu sau, “cô Đức cậu
Kỳ” đã được mời đi hát ở khắp các nhà hát tại Hà Nội và cả các tỉnh lân cận. Nhà
văn tài tử Nguyễn Tuân, bạn của ông Phó Đình Ôn, mê giọng ca của
bà lắm, thường tấm tắc: “Con bé này sau này sẽ có tương lai lắm đây”.
“Tôi sống với bố mẹ. Ban ngày ở nhà trông em, đi học
khâu, học thêu, học may, gia chánh, tối thì đi hát cho những nhà mời mình.
Người ta cho xe tay đến đưa đi. Nhiều nhà
hồi ấy giàu lắm, có ô-tô riêng, thì họ đưa mình đi bằng ô-tô. Hát từ độ 7-8h
tới 11h, hôm nào khuya thì 12h đêm” – bà Kim Đức nhớ lại. Hà Nội ngày ấy ca quán ca trù nhiều như
nấm sau mưa. Không có thống kê chính thức, chỉ biết ký giả Hồng Lam trong một
bài phóng sự điều tra trên báo Trung Bắc chủ nhật có viết rằng, riêng năm 1938,
ngoại ô Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cô đầu, trong khi dân số toàn Hà Nội
thời ấy chỉ
khoảng 25 vạn.
Bà
Kim Đức hồi tưởng: “Hà Nội ngày ấy nhiều nhà hát ca trù lắm, tôi đi hát suốt. Khâm Thiên, Vạn
Thái, Ngã Tư Sở, Vĩnh Hồ, đường Láng, các cửa ô Đồng Lầm, Đông Mác, Gia Lâm,
Gia Quất, Gia Thượng… chỗ nào cũng có ca trù. Không như bây giờ, thì chỗ nào
cũng không có”.
Cô đầu hát, cô đầu
rượu
Theo
bà Phó Kim Đức, ca trù là
một nghệ thuật rất cao: “Không chỉ là nghệ thuật ca hát mà nó còn là văn học nữa, người nào hiểu văn sẽ yêu ca
trù, sẽ thấy nó cao cấp, hàn lâm, khoa học”. Bà cho rằng, chỉ từ khi chính
quyền thực dân cấp môn bài bừa bãi, nhiều nhà giàu thừa tiền mở nhà hát lung
tung, thì cô đầu rượu mới xuất hiện và ca trù rước tiếng xấu từ đó. Bà nói một
cách bức xúc: “Khổ thế chứ. Người ta có tiền mở nhà hát, mình có nghề mà không
có tiền thì phải đi hát thuê, thế rồi đến lúc mang tiếng thì mình là người hát,
mình chịu cả. Cho dù có nghề, tài ba đến mấy thì mình vẫn bị gọi là “cô đầu”
với nghĩa rất xấu. Thật ra cô đầu đúng nghĩa phải là những đào nương tài hoa,
có nghề ca trù vững vàng. Nhưng ai hiểu đâu. Mấy bà ghen tuông vớ vẩn còn bảo “chồng tôi toàn
đi chơi cô đầu”. Cô đầu thì chơi thế nào được? Phải nghe hát chứ sao lại đi
chơi cô đầu?”.
Tuy
vậy, giai đoạn trước năm 1945, thực sự là ca quán ca trù nào cũng có cả cô đầu
hát (đào nương) và cô đầu rượu. Suốt chầu ca trù, cô đầu hát thì cứ hát mà cô
đầu rượu thì cứ tiếp rượu, tiếp trà cho khách. Ngày ấy, báo chí cũng có nhiều
hí họa, nhiều phóng sự phản ánh về khu phố Khâm Thiên, Vạn Thái, trong đó cả đào rượu lẫn đào nương đều bị gọi ráo là cô đầu. Thêm
nhiều vụ các bà ghen tuông vì các ông đi “chơi cô đầu”, thế là tiếng xấu càng
dày thêm. Nhắc đến hát ả đào, người ta nghĩ đến một thú ăn chơi trác táng, còn
cô đầu là loại người “lấy khách – khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu – nhà giàu hết
của”.
Hỏi
bà Kim Đức về chuyện đó, bà bực bội: “Nhà nào mà chẳng có cô đầu rượu. Tôi làm
nghề, tôi chỉ biết hát thôi, kệ người ta. Hát xong thì tôi về, chứ biết đâu
chuyện “công đoạn ba”. Chắc là cũng có những cô không nghề nghiệp gì, nhưng có
sắc, xin vào làm cô đầu rượu… vớ vẩn lại
vớ được ông chồng giàu!”. Tuy thế bà cũng khẳng định, vẫn có nhiều nhà hát mà
khách đến vì muốn được thưởng thức ca trù thật sự, “nghe sạch, nghe hay”, chứ không phải vì muốn tìm kiếm “món lạ”. Và bà nhấn mạnh: “Ngày xưa, nghe ca trù, phải tới 70-80% khách hiểu
và yêu ca trù, không phải như bây giờ, mấy ai hiểu về cái hay, cái đẹp của nó”.
Không gian ca trù xưa
Thời
xa xưa, ca trù diễn ra chủ yếu trong không gian đình (đền) làng, nên nó còn được gọi là hát cửa đình. Thời Pháp thuộc, khi việc mở
nhà hát trở thành một nghề kinh doanh, được cấp môn bài và phải đóng thuế,
thì chầu hát được tổ chức trong nhà. Trong căn phòng (đã có đèn điện bóng tròn
chiếu sáng), người ta kê vài bộ ghế ngựa, một tấm phản. Đào nương và kép (người
gảy đàn) ngồi xếp bằng tròn trên phản, hát
theo yêu cầu của khách. Bà Kim Đức kể: “Một chầu hát chỉ có hai anh em
tôi thôi, họ đã mời mình rồi thì không mời người khác nữa. Hát nhiều lắm, tới
mấy tiếng đồng hồ, người ta yêu cầu bài gì thì mình hát bài đó, đủ cả: thơ
Nguyễn Công Trứ, thơ Cao Bá Quát, Thét nhạc, Bắc phản… Tất nhiên người nghe
cũng biết ý, mình hát xong, họ cho nghỉ một lát, rồi mới đề
nghị tiếp. Quan viên cầm trống, bảo tôi: “Cháu hát Thiên Thai nhé”, thế là tôi
hát, ông anh tôi đàn. Người nghe ngồi im phăng phắc, lịch sự, tôn trọng lắm”.
Đào
nương hát hay sẽ được quan khách thưởng bằng tiền, bỏ phong bì đặt cẩn thận vào
đĩa (thời ấy chưa có vỗ tay, tặng hoa, ném xu lên sân khấu). Bà Kim Đức và ông
Phó Đình Kỳ đều là “sao”, được thưởng
rất nhiều: “Hồi ấy 500 đồng tiền Đông Dương là lớn lắm, mà hai anh em
tôi có khi mỗi tối cũng kiếm tới 4-500 đồng bạc”.
12
tuổi, cô bé Kim Đức, tóc búi, áo dài quần trắng giản dị, không son phấn, đã đi
hát ca trù hàng đêm như thế. Rất nhiều người đã nghe và say tiếng hát của “cô
Đức”, trong số ấy, có những gương mặt mà mãi về sau, bà mới biết họ là các trí
thức – đảng viên cộng sản, như các ông Vũ Đình Tụng, Phạm Lưu Bổng, Nguyễn Đăng
Quốc, Nguyễn Công Truyền…
Sau
Cách mạng tháng Tám, ca trù, với những tiếng xấu đang phải gánh chịu, bị gộp
chung vào với “các tàn dư của chế độ
phong kiến” và bị xóa bỏ dần theo
hướng “để cho chết”. Tất cả đào nương
đều lặng lẽ chôn vùi thân phận, giấu phách, bỏ đàn. Bà Kim Đức tản cư, sau đó
về thành làm nghề sản xuất và buôn đồ nhựa một thời gian. Năm 1962, bà được
nhận vào công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam với công việc hát chèo, ngâm thơ.
Năm 1993, bà được phong danh hiệu NSƯT, cũng với chức danh nghệ sĩ chèo.
Giờ
đây, nhớ về những năm tháng làm “đào nương nhí” trước 1945, nghệ sĩ Kim
Đức vẫn bồi hồi nghĩ đến một thời vang
bóng của ca trù, khi người ta lắng nghe ca trù với tất cả sự hiểu biết và tôn
trọng. Đồng thời, bà cũng không khỏi bức xúc khi xã hội vẫn tò mò, kỳ thị về
hai tiếng “cô đầu”...
Nghệ nhân ca trù Phó Kim Đức.
Nguồn ảnh: M.Linh (Đại Đoàn Kết)
CA TRU – GOLDEN DAYS ARE GONE
A
gentle face, decent behavior and elegant fashion style, especially her sweet
and resonant voice despite her eighties, all tempts people to find in her the
image of a ca tru singer of ancient
Hanoi. She is Pho Kim Duc, a famous ca
tru vocalist in Kham Thien street between 1943 and 1945.
Ask
her about the stage life of ca tru in
the years under colonial French rule, and she would react unpleasantly. In the
old days the quarter of Kham Thien was famous for being “the street of co dau” (Vietnamese for a geisha-form
artist). Every night the street was lighted with ca tru performances where both dao
hat (singing maidens) and dao ruou
(wine maidens) were serving audience with their singing and beauty
respectively.
Born
in 1931, Kim Duc was then only a child of 12 or 13, but she was a brilliant dao nuong, or, to speak in modern
language, a very hot songstress. Her home was in number 89 of Kham Thien
street, meaning at the middle of the Hanoi’s typical street of co dau. She was born into a family with
the tradition of ca tru performance.
Her father was Pho Dinh On, the leader of a famous ca tru group, who taught her to sing since she was only 7. Born talent,
she would, at the age of 12, sing in all private theatres in the street,
together with her brother Pho Dinh Ky. Her beautiful singing voice and phach (small wooden sticks beaten on a
small bamboo platform to serve as percussion) were so enchanting that they soon
won the heart of spectators, and very soon later “sister Duc, brother Ky” would
be invited to perform in every ca tru theatre
in Hanoi and its peripheral towns. Nguyen Tuan, a writer who is Pho Dinh On’s
friend, allured by her voice, often said, “in the future, this girl will be
much heard of.”
“I
lived with my parents. In the daytime, I stayed at home to take care of my little
brothers and sisters, or went to classes of embroidery, tailoring, and cooking.
In the evening I went to sing at invitations,” recollected Kim Duc. “They
picked me up by rickshaw. There were many wealthy people then who took me to
the theatre in their own car. Our performance often lasted from 7pm until 11pm,
even 12pm sometimes.”
In
Hanoi those days, ca tru inns were
mushrooming. There were not any official statistic figures except when Hong
Lam, a journalist, wrote in an investigative reportage on the Trung Bac Chu Nhat (Centre and South
Sunday) that in 1993 alone, the suburbs of Hanoi saw 216 ca tru inns and nearly 2,000 co
dau, while the whole Hanoi population at that time was just around 250,000.
Kim
Duc said, “Hanoi in those days had so many ca
tru inns that I could sing all the time. Kham Thien, Van Thai, Nga Tu So,
Vinh Ho, Lang, gates of Dong Lam, Dong Mac, Gia Lam, Gia Quat, Gia Thuong,
etc., ca tru inns could be found
everywhere. It’s unlike today when no inns can be found anywhere.”
Dao hat and dao ruou
Kim
Duc said ca tru is a very noble form
of art. “It’s is not just singing but also poetry. Whoever with a taste for
poetry will love ca tru to find it
highly developed, elegant, and court.” She said only since the colonial
administration became lavish in granting licenses, allowing a rash of new inns
owned by wealthy people, did dao ruou
appear and tarnish the reputation of ca
tru.
She
said angrily, “Poor us! They had money, they set up ca tru theatre. We did not have money, we were hired to sing. Then
we, as artists, bore all the disputation. No matter how talented or devoted we
were, we still were considered to be co
dau in its worst meaning. While a true co
dau must be a talented, highly skilled artist, very few understood that.
Some jealous women even said, “My husband often flirts with co dau.” How could one flirt with co dau? Co dau could only be listened to.”
Nonetheless,
the fact was that in the years prior to 1945, every ca tru inn hired both dao hat
and dao ruou. During a ca tru performance, dao hat kept singing, and dao
ruou kept serving tea and drink. The press published features and
caricatures of Kham Thien or Van Thai streets, denominating both dao ruou and dao hat as co dau. Many
cases of women jealous of husbands “flirting with co dau” added more bad reputation to ca tru. The word “ca tru
performance”, whenever referred to, only reminded people of a debauched habit,
with co dau described as the kind of
person who would make her Chinese husband leave Vietnam if she got married with
a Chinese, and make her Vietnamese bankrupt if she got married with a
Vietnamese man.”
Kim
Duc got angry when asked about the veracity of that legend. “Every inn had dao ruou. But I, as a professional
vocalist, just took care of singing and let them alone. Then the show ended and
I left without caring about “the third phase”,” said she. “But it was likely
that there were beautiful but jobless girls asking to be dao ruou… in the hope that she could someday marry a rich man.”
However, Kim Duc insisted that there were inns where people visited just to
enjoy a true ca tru, clear and
beautiful, rather than to take pleasure in “something new.” She stressed that
in the past, “there must be up to 70 or 80 percent of the spectators were aware
of and attracted by ca tru’s beauty;
unlike today when there is scarcely anybody who is aware of the elegance of ca tru.”
The old space of ca tru
In
the old times, ca tru was mostly
performed in communal houses, thus it was also called hat cua dinh (Vietnamese for “singing in communal houses”). During
the colonial French rule, as setting up ca
tru inns became a form of business that required license and tax payment, ca tru was also performed in private
homes. In the room typically lighted by bulb-lamps, there would be some
plank-beds and chairs. Dao nuong, the
female singer, and kep, the lute
player, were sitting on one plank-bed, and performing ca tru at spectators’ wish. “A typical team of ca tru performers included just me and my brother. Once we were
invited to perform, the host would not invite any other artists,” said Kim Duc.
“For
hours, we sang upon request a lot of songs: pieces by Nguyen Cong Tru, Cao Ba
Quat (the two classical 19th Century poets whose works were set
music to), Thet nhac, Bac phan (famous ca tru tunes), etc. The audience was very polite. Once we finished
a song, they would allow time for us to take a break before requesting another
piece. The leading spectator who stroke the trong
chau (praise drum, which was used in praise of the singer) told me, “Sing
Thien Thai (Shangri-la), little
girl,” and I sang it, and my brother accompanied me on his dan day (moonlute). The admirers would listen in silence and
deference of us.”
In
those days, people did not have the habit of clapping hands, whistling or
throwing coins to the stage. A good dao
nuong would be awarded by audience with an envelop of cash which was put
neatly on a plate. Kim Duc and her brother Pho Dinh Ky were both stars and
often generously awarded. “500 Indochinese piastres were a huge amount of cash
then, and we sometimes could earn up to 400 or 500 piastres for one night
performance,” said Kim Duc.
Such
was Kim Duc, as a girl of 12, with her chignon, plainly dressed without
make-up, who went to ca tru performance
every night. So many people became admirers of “miss Duc”, among which there
were men who only a long time later did she know were Communist intellectuals:
Vu Dinh Tung, Pham Luu Bong, Nguyen Dang Quoc, Nguyen Cong Truyen, etc.
After
August Revolution in 1945, ca tru,
with its allegedly blackened reputation, was identified with “legacies of
feudalism” and was abolished in the form of “being let die”. All dao nuong had to quietly efface their
past life, hiding away musical instruments. Kim Duc evacuated, then returned to
Hanoi to run a small business in producing and trading plastic household stuff.
In 1962 she was admitted into the Voice of Vietnam Radio, where she would
perform cheo (another form of
Vietnam’s musical theatre) and ngam tho (Vietnamese
for setting music to and singing poems). In 1993, she was honored as Eminent
Artist in cheo of Vietnam.
Now,
whenever looking back on her time as a little dao nuong before 1945, Kim Duc finds in herself a reminiscence of
the distant golden time of ca tru,
when people would enjoy ca tru in
their highest deference and perception. And she cannot help feeling annoyed to
witness the society’s prejudice against co
dau, the symbol of an elegant genre of Vietnam’s chamber music.
Nguồn ảnh: Ca trù Thăng Long