Bối
cảnh
Tác giả Trịnh Hữu Long |
Chứng
cứ được sử dụng để phân tích là một đoạn phim
dài 01 phút 11 giây được người sử dụng Thanh Long đăng
tải trên website www.youtube.com
ngày 08/12/2013. 2
Phân
tích hành vi
Đoạn
phim cho thấy một tài sản là tệp giấy của một người
phụ nữ tên là Nguyễn Hoàng Vi được chuyển dịch cơ
học từ Vi sang Tuấn Anh. Khoa học hình sự Việt Nam đưa
ra bốn yếu tố để phân tích một hành vi nào đó có
phải là tội phạm hay không, hay còn gọi là bốn yếu tố
cấu thành tội phạm, bao gồm: mặt khách quan, mặt chủ
quan, khách thể, chủ thể. Bài viết sẽ tập trung phân
tích bốn yếu tố này trong hành vi của Nguyễn Tuấn Anh
được ghi nhận trong đoạn phim nêu trên, để trả lời
cho hai câu hỏi:
(i)
hành vi này có phải là tội phạm không?
(ii)
nếu có, hành vi này là tội gì?
1.
Mặt khách quan
Mặt
khách quan là tất cả những dấu hiệu được biểu hiện
ra bên ngoài của hành vi.
a. Hành vi khách quan
Trong
đoạn phim được sử dụng làm chứng cứ, Nguyễn Tuấn
Anh đã có các hành vi khách quan sau:
(i)
Giật tài sản: Bắt đầu từ giây thứ 52, Nguyễn Tuấn
Anh đã giật tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
quản lý của Nguyễn Hoàng Vi. Tài sản được xác định
là bản sao bằng giấy của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền, đang được Nguyễn Hoàng Vi cầm trên tay.
Tính
chất nhanh chóng và bất ngờ là dấu hiệu đặc trưng
của hành vi giật. Tại đoạn phim, Nguyễn Tuấn Anh đã
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của Nguyễn
Hoàng Vi một cách bất ngờ và trong thời gian 03 giây đã
hoàn thành mục đích chiếm đoạt tài sản.
Hành
vi của Nguyễn Tuấn Anh được diễn ra tại một không
gian công cộng là Công viên 23-9, xung quanh có đông người
và nhiều phương tiện ghi hình đang làm việc. Điều này
cho thấy Nguyễn Tuấn Anh không có ý định che giấu hành
vi của mình, đồng nghĩa với việc công khai thực hiện
hành vi.
(ii)
Tẩu thoát: Ngay sau khi thực hiện xong hành vi giật tài
sản, Nguyễn Tuấn Anh đã tẩu thoát ra một địa điểm
cách Nguyễn Hoàng Vi khoảng 5 mét và sau đó tiếp tục đi
bộ ra khoảng cách xa hơn.
b.
Hậu quả
Hậu
quả của hành vi là sự thiệt hại về tài sản, tinh
thần và sức khỏe của công dân Nguyễn Hoàng Vi. Mặc dù
hậu quả và thiệt hại được cho là không đáng kể, nó
vẫn được xem xét như một phần của cấu thành tội
phạm.
2.
Mặt chủ quan
Mặt
chủ quan của hành vi là biểu hiệu về mặt tâm lý của
người thực hiện đối với hành vi và hậu quả của
hành vi đó. Mặt chủ quan bao gồm 03 yếu tố: lỗi, động
cơ và mục đích thực hiện hành vi.
a.
Lỗi
Lỗi
là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý.3
Đoạn phim cho thấy Nguyễn Tuấn Anh nhận thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy
ra. Đây là lỗi cố ý theo quy định tại Khoản 1, Điều
9, Bộ luật Hình sự, hay còn được khoa học hình sự
gọi là lỗi cố ý trực tiếp.
Có
ý kiến cho rằng, Nguyễn Tuấn Anh không nhận thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, với suy nghĩ
rằng việc chiếm đoạt bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền là chống lại các thế lực mà anh cho là “thù
địch”, chống lại các hành vi mà anh cho là “diễn
biến hòa bình”, từ đó góp phần ổn định trật tự
xã hội. Tác giả bài viết không đồng ý với các lập
luận này, vì cho rằng Nguyễn Tuấn Anh có đầy đủ năng
lực chủ thể để hiểu rằng, việc chiếm đoạt một
tài sản hợp pháp của người khác là nguy hiểm cho xã
hội, bất chấp tài sản hợp pháp đó là bản Tuyên ngôn
Quốc tế Nhân quyền hay Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam.
b.
Động cơ: Có ý kiến cho rằng, đối tượng này muốn
lập thành tích với đơn vị công tác trong việc ngăn cản
các “thế lực thù địch”, “âm mưu diễn biến hòa
bình”. Tuy nhiên, tác giả chưa có căn cứ xác đáng để
xác định động cơ của Nguyễn Tuấn Anh khi thực hiện
hành vi này.
c.
Mục đích: Đoạn phim cho thấy Nguyễn Tuấn Anh đã thực
hiện hành vi một cách quả quyết và dứt khoát, trong
thời gian rất ngắn, đó là dấu hiệu cho thấy đối
tượng này có mục đích chiếm đoạt tài sản một cách
rất rõ ràng.
3.
Khách thể
Khách
thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm
mà các quan hệ xã hội đó được Bộ luật Hình sự bảo
vệ.4
Ở đây, hành vi của Nguyễn Tuấn Anh đã cùng lúc xâm
phạm hai quan hệ xã hội: quan hệ tài sản và quan hệ
nhân thân, mà cụ thể ở đây là: (i) sở hữu cá nhân
của Nguyễn Hoàng Vi đối với bản sao bằng giấy của
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, và (ii) trạng thái tinh
thần, sức khỏe của Nguyễn Hoàng Vi.
4.
Chủ thể
Nguyễn
Tuấn Anh, người được xác định là chủ thể của hành
vi, 32 tuổi, nằm trong độ tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự đầy đủ đối với hành vi của mình.
Tác
giả không có hồ sơ bệnh án đối với các bệnh về
tâm thần của Nguyễn Tuấn Anh và căn cứ dựa trên việc
đối tượng này đang làm việc tại tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tác giả cho rằng Nguyễn
Tuấn Anh không mắc các bệnh về tâm thần. Có ý kiến
cho rằng biểu hiện tâm lý của đối tượng trong đoạn
phim như cười nhếch mép, đối xử thô bạo với một
phụ nữ có thể hình kém hơn hẳn, cướp giật một văn
kiện pháp lý quốc tế quan trọng về nhân quyền (mà
Việt Nam là nước ký kết) từ một người đang cố gắng
giúp người dân tiếp cận, bỏ chạy sau khi thực hiện
xong hành vi,... là dấu hiệu của bệnh tâm thần và cần
được trưng cầu giám định. Tác giả giữ quan điểm
cho rằng, những dấu hiệu này thuộc về phạm trù tâm
lý học tội phạm chứ không phải phạm trù bệnh lý và
cho rằng tình trạng sức khỏe tâm thần của Nguyễn Tuấn
Anh hoàn toàn bình thường.
Như
vậy, căn cứ vào Điều 12 của Bộ luật Hình sự về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và Điều 13 về tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, tác giả
cho rằng Nguyễn Tuấn Anh là người có đầy đủ năng
lực trách nhiệm hình sự.
Kết
luận
Từ
các phân tích nêu trên, tác giả cho rằng hành vi của
Nguyễn Tuấn Anh là hành vi cướp giật tài sản, được
quy định tại Điều 136 của Bộ luật Hình sự:
Điều
136. Tội cướp giật tài sản
1.
Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị
phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a)
Có tổ chức;
b)
Có tính chất chuyên nghiệp;
c)
Tái phạm nguy hiểm;
d)
Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ)
Hành hung để tẩu thoát;
e)
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
g)
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu
đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
h)
Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a)
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
b)
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng
đến dưới năm trăm triệu đồng;
c)
Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a)
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc
làm chết người;
b)
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu
đồng trở lên;
c)
Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.
Theo
thạc sĩ Đinh Văn Quế, nguyên Phó Chánh tòa Tòa hình sự,
Tòa án Nhân dân Tối cao, “cướp giật tài sản là nhanh
chóng giật lấy tài sản của người khác một cách công
khai rồi tìm cách tẩu thoát”. 5
Bộ
luật Hình sự không quy định giá trị tài sản bị cướp
giật như là tình tiết định tội. Điều này đồng
nghĩa với việc giá trị tài sản bị loại bỏ trong quá
trình xem xét một hành vi của Nguyễn Tuấn Anh có phải
là tội cướp giật tài sản hay không. Bất kể bản
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của công dân Nguyễn
Hoàng Vi có giá trị bao nhiêu, đó vẫn là tài sản đang
nằm trong sự chiếm hữu của Nguyễn Hoàng Vi, và hành vi
của Nguyễn Tuấn Anh phải được xác định là cướp
giật tài sản.
Tại
sao hành vi của Nguyễn Tuấn Anh không phải là cướp tài
sản mà lại là cướp giật tài sản? Sự khác nhau giữa
hai hành vi này là yếu tố vũ lực.
Điều
138, Bộ luật Hình sự quy định như sau:
Tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản
1.
Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức
khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm.
Dựa
trên đoạn phim được sử dụng làm chứng cứ, chúng ta
có thể xác định Nguyễn Tuấn Anh không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc đối với
Nguyễn Hoàng Vi hoặc có hành vi nào khác làm cho Nguyễn
Hoàng Vi lâm vào tình trạng không thể chống cự. Hành vi
của Nguyễn Tuấn Anh là dùng tay tác động vào bản Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền và giật nó ra khỏi tay Nguyễn
Hoàng Vi. Việc Nguyễn Hoàng Vi bị chao đảo và sắp ngã
không phải là hậu quả của việc Nguyễn Tuấn Anh sử
dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực.
Như
vậy, thông qua các phân tích trên đây, chúng ta nhận thấy
những dấu hiệu rõ ràng của việc phạm tội cướp giật
tài sản, mà người thực hiện là Nguyễn Tuấn Anh./.
____________
* Do một số hạn chế khách quan về tài liệu, một số trích dẫn trong bài viết này đã không được chú thích một cách đầy đủ. Tác giả rất mong được độc giả lượng thứ.
* Do một số hạn chế khách quan về tài liệu, một số trích dẫn trong bài viết này đã không được chú thích một cách đầy đủ. Tác giả rất mong được độc giả lượng thứ.
1
Xem:
Tiếng vọng quê hương thôi thúc tôi trở về, báo Đại
Đoàn Kết, ngày 15/11/2013, tại
http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1463&Style=1&ChiTiet=71698
2
Xem:
MLBVN chào mừng ngày Quốc Tế Nhân Quyền tại công
viên 23/9, phần 3, tại
http://www.youtube.com/watch?v=edpSSgF40W0&feature=youtu.be
3
Xem:
Bình luận Bộ luật Hình sự (phần riêng), Chương XIV
Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự năm
1999, Đinh Văn Quế, Nhà Xuất bản TP. Hồ Chí Minh.
5
Xem:
Bình luận Bộ luật Hình sự (phần riêng), Chương XIV
Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự năm
1999, Đinh Văn Quế, Nhà Xuất bản TP. Hồ Chí Minh.
Nguồn của bài viết: http://blog.trinhhuulong.com/2013/12/phan-tich-hanh-vi-cua-nguyen-tuan-anh.html