Thursday, 27 February 2014

Hãy biết quyền của mình (4): An ninh quốc gia vs. Nhân quyền

Không riêng gì Việt Nam, ở tất cả các quốc gia trên thế giới, an ninh quốc gia luôn là một lý do cực kỳ xác đáng để nhà nước can thiệp và hạn chế quyền tự do của người dân. Điểm khác biệt là mức độ nhà nước lợi dụng vấn đề ''an ninh quốc gia'' để giới hạn quyền của dân chúng và trấn áp những người dám đối đầu với chính quyền (hay là những người bất đồng chính kiến). Chính quyền càng độc tài thì càng sử dụng ngón võ ''an ninh quốc gia'' này một cách tùy tiện, vô tội vạ hơn.

Để minh họa khái niệm ''an ninh quốc gia''...

Cuối tháng 1 vừa qua, anh Nguyễn Hồ Nhật Thành, 28 tuổi, lên đường đi Mỹ tham dự một cuộc vận động nhân quyền nhân phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) của Việt Nam, theo lời mời của một số tổ chức phi chính phủ quốc tế. Chú ý rằng UPR là một cơ chế bảo vệ nhân quyền của Liên Hợp Quốc, được coi như một sáng kiến bởi nó cho phép khối xã hội dân sự của một quốc gia tham gia đánh giá và báo cáo về tình hình nhân quyền của nước mình cho Liên Hợp Quốc.

Visa đã được cấp và vé máy bay đã mua, nhưng anh Thành lại bị an ninh cửa khẩu chặn lại ở sân bay Tân Sơn Nhất với lý do chung chung là ''vì an ninh quốc gia...'' (có dấu ba chấm).

Sau khi anh Thành có đơn đề nghị làm rõ tại sao anh không được xuất cảnh, Cục Quản lý Xuất Nhập Cảnh (ở nước ta thì nó trực thuộc Bộ Công an) có thư trả lời vào ngày 21/2, rằng đó là ''vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội''.

Trước đó bốn tháng, vào ngày 21/10/2013, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội ra quyết định đình chỉ giải quyết một vụ án hành chính sơ thẩm mà người kiện là bà Bùi Thị Minh Hằng, khởi kiện Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Thế Thảo vì ông này đã tống bà vào ''cơ sở giáo dục'' 5 tháng. Tòa án cũng nại lý do nội dung khiếu kiện của bà Bùi Thị Minh Hằng ''có liên quan đến lĩnh vực an ninh''.

Trước đó nữa, năm 2009, một số blogger ở Việt Nam (trong đó có người viết bài này) bị bắt giam theo Điều 258 Bộ luật Hình sự (lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của Nhà nước). Không rõ quyền tự do dân chủ nào đã bị lợi dụng và mức độ thiệt hại của Nhà nước đến đâu. Còn hành vi mà cơ quan an ninh căn cứ vào đó để khép tội là ''in áo chống dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên''. Hành vi in áo này được coi là xâm phạm an ninh quốc gia, hoặc có lúc lại được gọi là xâm hại lợi ích Nhà nước.

Sơ sơ ba trường hợp trên đủ cho ta thấy tính chất thoáng rộng và bao trùm của khái niệm ''an ninh quốc gia'', ''lợi ích Nhà nước'' ở Việt Nam. Đó chỉ mới là ba trong hàng trăm vụ việc từ trước đến nay, khi cơ quan công quyền sử dụng lý do ''an ninh quốc gia'' để thực hiện một mục đích gì đấy. Điều kỳ lạ là trong các vụ việc, đương sự chỉ bị xử lý theo các điều luật trong Bộ luật Hình sự, còn chính Luật An ninh Quốc gia của Việt Nam (ban hành năm 2004) thì lại không được đề cập đến.

An ninh quốc gia mâu thuẫn với nhân quyền như thế nào?

Quả thật, an ninh quốc gia có những lúc mâu thuẫn với quyền con người. Một ví dụ cơ bản là mâu thuẫn giữa việc giữ gìn bí mật quốc phòng, bí mật công tác điều tra (chẳng hạn trong hoạt động chống khủng bố) và việc bảo đảm quyền tự do thông tin, quyền được biết của người dân. Rõ ràng, những thông tin về bản đồ hệ thống phòng thủ tên lửa của Hà Nội (nếu có) không phải là cái mà công dân Việt Nam nào cũng được tiếp cận, nhân danh ''quyền được biết''.

Nhưng trên thực tế, an ninh quốc gia luôn luôn là cái cớ để các nhà nước độc tài xiết chặt quyền tự do của người dân, đàn áp tự do thông tin và báo chí, tiêu diệt tính độc lập của tòa án, phá hoại pháp quyền. Do đó, các chuyên gia luật pháp trên thế giới đã khuyến cáo: ''Khái niệm an ninh quốc gia phải được định nghĩa chính xác trong luật pháp của mỗi quốc gia, theo một cách phù hợp với các nhu cầu của một xã hội dân chủ''; ''luật pháp phải rõ ràng, không mơ hồ, định nghĩa cụ thể và chính xác, để ai ai cũng có thể tiếp cận được và hiểu được điều gì bị cấm...''.

Luật An ninh Quốc gia của Việt Nam cũng có định nghĩa về an ninh quốc gia, rằng đó là ''sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc''. Định nghĩa này mơ hồ, không cụ thể, cho nên hoặc là không áp dụng vào đâu được, hoặc là ngược lại, áp dụng vào đâu cũng được, tùy ý thích của lực lượng an ninh. Ngoài ra, có vẻ như nó không phù hợp với các nhu cầu của một xã hội dân chủ, mà chỉ phù hợp với chính quyền trong chế độ xã hội chủ nghĩa.

Có lẽ do vấp phải những ''bất cập'' đó, cho nên trong các vụ án chính trị, liên quan đến an ninh quốc gia, đương sự lại chỉ bị xử lý do bị kết tội vi phạm các điều khoản trong Bộ luật Hình sự. Một số điều khoản trong Bộ luật Hình sự cũng mơ hồ không kém, ví dụ Điều 258 về ''lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích Nhà nước''.

Biểu tình là xâm hại an ninh quốc gia? 
Hay đàn áp biểu tình mới là xâm hại an ninh quốc gia
 và an ninh của người khác?

An ninh quốc gia, lợi ích Nhà nước phải chính đáng

Ý thức được rằng khái niệm ''an ninh quốc gia'', ''lợi ích nhà nước'' luôn được diễn giải tùy tiện theo ý nhà cầm quyền mà đại diện là cơ quan an ninh, nên các chuyên gia luật pháp quốc tế đã chỉ rõ cả những trường hợp chính quyền nại ra các lý do chẳng liên quan gì đến an ninh quốc gia để trấn áp quyền tự do của người dân. Khi đó thì không còn là an ninh quốc gia, lợi ích nhà nước chính đáng nữa.

''Không phải là chính đáng... nếu bảo vệ chính quyền và/hoặc quan chức khỏi bị phát hiện tham nhũng; nếu che giấu thông tin về tình hình vi phạm nhân quyền, về bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào, hoặc về hoạt động của các cơ quan nhà nước; nếu củng cố hoặc kéo dài một lợi ích chính trị, củng cố hoặc kéo dài thời gian tại vị của một đảng phái hay ý thức hệ; nếu đàn áp các cuộc biểu tình được tổ chức đúng luật''.

Bản Nguyên tắc toàn cầu về an ninh quốc gia và quyền được biết (Nguyên tắc Tshwane), ban hành ngày 12/6/2013 sau quá trình tham vấn hơn 500 chuyên gia luật pháp ở 70 quốc gia trên thế giới, đã xác định rõ như vậy.

Lẽ nào Đảng và Nhà nước huy động lực lượng an ninh vào bảo vệ những cái không chính đáng như vậy sao?

Cũng thật may cho Đảng và Nhà nước là Nguyên tắc Tshwane này chỉ có giá trị tham khảo chứ không ràng buộc về mặt pháp lý.  

Tuesday, 11 February 2014

Hậu UPR: Làm thế nào vận dụng cơ chế LHQ để bảo vệ nhân quyền?

Cơ chế bảo vệ nhân quyền của LHQ không phải là một hệ thống pháp luật và không có tính ràng buộc với quốc gia nào. Tuy nhiên, vẫn có những cách để những nạn nhân bị vi phạm nhân quyền ở Việt Nam dựa vào quốc tế để bảo vệ quyền của mình và những người khác.

Một ngày trước phiên điều trần UPR của Chính phủ Việt Nam, phái đoàn dân sự độc lập vận động cho nhân quyền Việt Nam đã gặp một quan chức cao cấp của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền. Ông vốn là một luật sư, một chuyên gia về nhân quyền, và rất hiểu về các cơ chế của Liên Hợp Quốc, chẳng hạn UPR (Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát) hay SR (Báo cáo viên Đặc biệt).

Ông đã cung cấp cho các nhà bảo vệ nhân quyền Việt Nam nhiều kiến thức quý giá về hoạt động đấu tranh bảo vệ nhân quyền. Vì lý do ''ngoại giao'' với Liên Hợp Quốc (LHQ), ông đề nghị giấu tên để cuộc trò chuyện được thoải mái với những thông tin trung thực nhất có thể.

- Thưa ông, trong chuyến đi này, chúng tôi xác định mục đích chính của mình là nói cho người dân trong nước biết rằng có những cơ chế quốc tế để có thể bảo vệ nhân quyền của mọi người. Việt Nam hiện đã là thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ. Chúng tôi được biết ông là một chuyên gia về thủ tục Báo cáo viên Đặc biệt. Ông có thể giải thích – một cách đơn giản nhất – cho những người dân Việt Nam có quan tâm hiểu về thủ tục này và các cơ chế nhân quyền khác của LHQ nói chung và Hội đồng Nhân quyền nói riêng không?

- Một cách cực kỳ vắn tắt thì LHQ có hai cơ chế bảo vệ nhân quyền:

1. Các cơ quan dựa trên Hiến chương LHQ (charter bodies), trong đó có Hội đồng Nhân quyền LHQ với cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) và cơ chế Các Thủ tục Đặc biệt (Special Procedures).

2. Các cơ quan được thành lập và hoạt động dựa trên các công ước quốc tế về nhân quyền (treaty bodies). Có 10 cơ quan như vậy, thực hiện chức năng giám sát việc thi hành 10 công ước quốc tế về nhân quyền.

Bây giờ tôi sẽ nói với các bạn về cơ chế Các Thủ tục Đặc biệt, là lĩnh vực của tôi. Tôi sẽ nói về những gì chúng tôi có thể làm được và những gì chúng tôi không làm được. Các bạn biết những điều này để có thể tận dụng cơ chế này bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.

Những gì LHQ có thể làm

* Cơ chế Các Thủ tục Đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền LHQ gồm những hoạt động như: chính thức đến một quốc gia để tìm hiểu về tình hình nhân quyền (country visit); làm nghiên cứu, tham vấn chuyên gia, nâng cao nhận thức về nhân quyền...; và một hoạt động có thể dịch sang tiếng Việt là giao thiệp (communications).

Giao thiệp là việc LHQ gửi thư khiếu nại khẩn cấp (urgent appeal) hoặc thư đề nghị làm rõ (letter of allegation) cho chính phủ của quốc gia vi phạm nhân quyền. Cho nên có một cách dịch communications sang tiếng Việt là ''thủ tục khiếu nại''. Nhưng về bản chất, hoạt động này đúng là giao thiệp ở cấp nhà nước và LHQ, và mang tính ngoại giao rất cao. LHQ cũng chỉ có thể gửi thư trên cơ sở thông tin tố cáo mà họ nhận được từ bên trong quốc gia vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, điểm tốt là mọi cá nhân hay tổ chức đều có thể gửi thông tin tố cáo trực tiếp.

Nguồn ảnh: Shutterstock

- Trước hết, nói về những gì chúng tôi có thể làm được, thì đó là giao thiệp, tức là LHQ gửi thư cho chính phủ một nước để yêu cầu làm rõ về một vụ việc vi phạm nhân quyền nào đấy. Như tôi, lĩnh vực của tôi là bảo vệ hệ thống pháp luật độc lập, cho nên khi thấy có một vụ án nào đó mà Việt Nam không đảm bảo hệ thống pháp luật độc lập, tôi sẽ gửi thư cho Chính phủ Việt Nam.

Các bạn biết đấy, để hệ thống pháp luật được độc lập, thì công an-cảnh sát, tòa án, và luật sư phải độc lập. Chỉ cần một trong ba lực lượng bị chính quyền, chính phủ (cơ quan hành pháp) kiểm soát, thì hệ thống pháp luật mất tính độc lập. Khi đó, công dân có thể bị bỏ tù không án, hoặc bị áp đặt những bản án bất công.

Nói chung là như vậy, còn trên thực tế, phải có những vụ việc có dấu hiệu vi phạm cụ thể, LHQ mới có thể thực hiện thủ tục giao thiệp.

Những gì LHQ không làm được

- Ông có thể cho biết những giới hạn của cơ chế bảo vệ nhân quyền của Hội đồng Nhân quyền LHQ, cụ thể là UPR và Các Thủ tục Đặc biệt?

- Với hoạt động country visit, thì người của LHQ chỉ có thể đến một nước khi được chính phủ của nước ấy mời.

Với hoạt động communications, thì các bạn có thể thấy là nó rất lâu. Thêm nữa, LHQ gửi thư trên cơ sở thông tin tố cáo mà chúng tôi nhận được từ bên trong quốc gia vi phạm nhân quyền. Ở văn phòng của tôi, trung bình, mỗi ngày chúng tôi nhận 15 thư tố cáo từ các nơi khác nhau trên thế giới. May là mới 15 chứ chưa phải 50 (cười), nhưng các bạn thấy đấy, rất mất thời gian để có thể xử lý tất cả các vụ việc.

Đơn cử một ví dụ là Qatar. Chúng tôi biết ở Qatar có hàng trăm vụ vi phạm nhân quyền, nhưng chúng tôi cũng đành chịu, không giải quyết được. Đó là chưa kể, nếu tập trung vào xử lý các vấn đề của một nước thôi, chẳng hạn Syria, thì chúng tôi sẽ không thể quan tâm đến phần còn lại của thế giới được nữa.

Và cuối cùng là tính hiệu quả. Nhiều lắm thì cuối cùng, trong mỗi vụ việc, LHQ cũng chỉ ra thông cáo bày tỏ quan ngại. Quốc gia bị cáo buộc vi phạm nhân quyền không có nghĩa vụ phải trả lời. Cơ chế bảo vệ nhân quyền của LHQ không phải là một hệ thống pháp luật và nó không có tính ràng buộc với quốc gia nào cả.

UPR cũng vậy. Nó có vẻ là một cơ chế tốt, có tính khả thi cao đấy, nhưng rất chậm chạp.

- Hội đồng Nhân quyền LHQ thuộc hệ thống các cơ quan dựa trên Hiến chương LHQ (charter bodies). Vậy còn các cơ quan thuộc hệ thống còn lại, dựa trên các công ước quốc tế (treaty bodies) thì sao, có hiệu quả gì hơn không, thưa ông?

- Cũng còn nhiều vấn đề lắm. Trên lý thuyết, ưu điểm là các cơ quan này cũng cho phép cá nhân công dân có thể gửi khiếu nại, tố cáo về vi phạm nhân quyền ở nước mình. Nói cách khác, bất kỳ ai cũng có quyền gửi thư tố cáo Nhà nước mình vi phạm một quyền quy định trong một công ước quốc tế nào đó mà Nhà nước đã ký. Nhưng trên thực tế, hầu như chẳng có khiếu nại cá nhân nào ra LHQ được.

Các quốc gia khiếu nại nhau thì được. Cho nên khi một công dân Việt Nam bị chà đạp nhân quyền và muốn tố cáo ra LHQ, các bạn phải xem có thể nhờ quốc gia nào khiếu nại, phải tìm xem quốc gia nào sẽ sẵn sàng làm việc đó? Các nước châu Á vốn không có truyền thống khiếu nại, tố cáo nước láng giềng của mình vi phạm nhân quyền. Thế nên theo tôi, các bạn có thể tìm kiếm các đối tác phương Tây.

Hướng dẫn cách làm cho người dân Việt Nam

- Hệ thống LHQ phức tạp và vận hành chậm chạp như vậy, thì theo ông, có cách làm nào hiệu quả để bảo vệ quyền con người ở Việt Nam?

- Tôi sẽ nói ngắn gọn thế này: HÃY ĐƯA CÂU CHUYỆN LÊN BÁO CHÍ QUỐC TẾ.

UPR tốt đấy, nhưng lâu lắm. Các Thủ tục Đặc biệt cũng chậm lắm. Hãy đưa những vụ việc vi phạm nhân quyền ra báo chí, truyền thông quốc tế. Hãy viết bài bằng tiếng Anh, hoặc tìm những người viết hộ cho bạn. Những câu chuyện, mất mát và khổ đau, của các cá nhân cụ thể luôn là điểm thu hút người đọc và báo chí.

Sẽ là tuyệt vời nếu các bạn có thể phản ánh tình hình vi phạm nhân quyền ở nước mình lên các cơ quan truyền thông quốc tế lớn, như CNN, New York Times, Washington Post, v.v.

Các bạn hãy hợp tác với các tờ báo lớn, và ĐỪNG QUÊN HỢP TÁC VỚI CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ trong nước và quốc tế.

- Các tổ chức xã hội dân sự đóng vai trò như thế nào, thưa ông?

- Trở lại với cơ chế UPR của Hội đồng Nhân quyền LHQ. Tôi có nói đó có vẻ là một cơ chế tốt, bởi vì với UPR, bạn có thể đến tận diễn đàn của LHQ để phản ánh, khiếu nại, tố cáo tình hình vi phạm nhân quyền ở nước mình, và ra các tuyên bố, các thông cáo, với tư cách tổ chức xã hội dân sự.

Có những tổ chức xã hội dân sự lớn mạnh hơn các tổ chức khác, vì thế họ có ảnh hưởng hơn đối với các chính quyền và với LHQ. Ví dụ, khi Ân xá Quốc tế, HRW (Theo dõi Nhân quyền), hay ICJ (Ủy ban Luật gia Quốc tế) ra thông cáo về một vấn đề nào đó, thì có nhiều khả năng LHQ sẽ hành động hơn và báo chí quốc tế cũng bị thu hút hơn.

Do đó, để tiếng nói của mình được lắng nghe trên trường quốc tế, cách làm khôn ngoan là bạn kết hợp với các tổ chức nhân quyền quốc tế lớn, chẳng hạn để ra tuyên bố chung.

Báo cáo chính trong tuyển tập này do VOICE, Dân Làm Báo, 
Truyền thông Chúa Cứu thế, Con Đường Việt Nam, 
phối hợp với Freedom House thực hiện. 

Tạo áp lực quốc tế

- Như vậy, vắn tắt là chúng ta có thể dựa vào truyền thông quốc tế và xã hội dân sự?

- Đúng vậy. Quan hệ – đó là cái tôi muốn nhấn mạnh. Những người đấu tranh cho nhân quyền phải xây dựng và phát triển quan hệ. Nói một cách đơn giản là, bạn có câu chuyện để kể và muốn kể, bạn cần phải có người sẽ giúp bạn khuếch tán câu chuyện đó.

Vậy hãy thiết lập quan hệ với báo chí quốc tế và các tổ chức dân sự quốc tế. Hãy có những người bạn, những đồng minh ở các quốc gia khác. Hãy tiến hành các nghiên cứu chung, làm báo cáo chung, ra tuyên bố chung. Luôn luôn hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự trong nước và quốc tế.

Các bạn cũng đừng quên vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Họ có thể phản ánh sự lo ngại về tình hình nhân quyền ở quê hương Việt Nam của mình lên chính phủ của nước họ đang cư ngụ, và góp phần tác động, hình thành hoặc thay đổi chính sách liên quan.

- Ta lấy một ví dụ cụ thể: Ông Trần Huỳnh Duy Thức, một doanh nhân có tài và yêu nước, đã bị kết án 16 năm tù mặc dù tất cả những gì ông làm chỉ là thể hiện chính kiến một cách ôn hòa. Trong quan hệ với cộng đồng quốc tế, chúng tôi có thể làm gì để thay đổi bản án đó?

- Để bảo vệ quyền con người cho một cá nhân cụ thể là ông Thức, các bạn có thể:

+ Viết bài gửi báo chí quốc tế, làm việc với họ. Hãy kể chuyện.
+ Hợp tác với các tổ chức dân sự.
+ Tìm đến các cơ quan lập pháp (quốc hội) ở những quốc gia mà Việt Nam quan tâm, để lên tiếng về trường hợp ông Thức.

Các bạn cũng biết là quốc hội và các dân biểu không tự nhiên mà ra chính sách. Họ đều phải dựa vào công luận, vào ý kiến của cử tri, của những người đã bầu cho họ. Vậy tốt nhất hãy tìm đến những nơi nào có nhiều cử tri quan tâm đến tình hình Việt Nam.

Hình ảnh Đỗ Thị Minh Hạnh tại một cuộc điều trần 
ở Hạ viện Mỹ, 16/1/2014. 

- Từ kinh nghiệm cá nhân thì ông thấy chính quyền Việt Nam có sợ áp lực quốc tế không?

- Tôi không muốn dùng từ ''sợ'', tôi muốn dùng từ ''quan tâm''. Họ có thể không sợ, nhưng họ quan tâm đấy (cười). Nói cho chính xác, Nhà nước Việt Nam quan tâm tới những quốc gia mà ở đó, báo chí có ảnh hưởng. Họ hiểu rằng công luận của các quốc gia đó có thể tác động tới chính sách của chính phủ.

Đó là lý do khiến tôi nói với các bạn rằng báo chí quốc tế có vai trò rất quan trọng. Công luận của Mỹ và các nước thuộc khối EU có thể tác động đến chính sách nhà nước. Các bạn cần biết điều đó để tận dụng.

Tôi nghĩ là chính quyền Việt Nam quan tâm đến công luận Mỹ, EU, kể cả hai nước thuộc khối Đông Âu cũ là Ba Lan, Séc. ASEAN cũng có ảnh hưởng đối với Việt Nam, nhưng tác động đến công luận ASEAN thì khó (cười). Riêng Trung Quốc thì Việt Nam rất quan tâm, nhưng tôi không nghĩ công luận hay nhà nước Trung Quốc sẽ bảo vệ nhân quyền của người Việt Nam (cười).

- Qua những gì ông nói, có thể thấy là giới truyền thông, báo chí có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ nhân quyền của người dân Việt Nam, đưa vấn đề ra quốc tế.

- Tôi muốn nhấn mạnh là truyền thông, báo chí thì hiệu quả hơn các thứ khác, còn ''quan trọng'' thì tất cả chúng ta đều quan trọng như nhau (cười). Ví dụ, giới luật sư là giới tạo nên khuôn khổ luật pháp – quốc gia và quốc tế.

Các bạn có thể thấy là ngay cả những vụ việc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, dù được phản ánh nhiều trên báo chí, cũng không chắc được giải quyết. Như Syria đó, lên báo suốt, nhưng tình hình vẫn không thay đổi nhiều.

Tuy nhiên, với Việt Nam thì khác. Tôi tin là nếu những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam bị đưa lên báo chí quốc tế, chính quyền Việt Nam sẽ rất bối rối.

- Dù sao, cũng thật bi quan khi thấy có những chính thể miễn nhiễm với dư luận và LHQ, như Bắc Triều Tiên...

Như tôi đã nói, hệ thống LHQ không phải là một hệ thống pháp lý và nó không có tính ràng buộc. Ngay cả nếu một quốc gia vi phạm nhân quyền theo cơ chế của LHQ, thì cũng đâu có sao? LHQ không có công an-cảnh sát, nhà tù để thi hành án. Nhân quyền, vì thế, thực chất là một vấn đề chính trị chứ không phải vấn đề pháp lý. Đôi khi, một chính phủ bị buộc phải mở miệng chẳng phải vì họ sợ LHQ, mà vì họ ngán báo chí quốc tế.

Vậy các bạn phải biết ''làm chính trị'' (cười): Tìm sự giúp đỡ từ báo chí, từ những quốc gia, tổ chức hoặc cá nhân, sẵn sàng lên tiếng về Việt Nam và vì nhân quyền người dân Việt Nam.

Tuesday, 4 February 2014

Thư gửi một nhân viên an ninh

Em thân mến,

Chị không gọi tên em, nhưng em biết thư này chị gửi em, phải không?

Chị đang ở châu Âu, trong một chuyến đi ngắn ngày để tham gia các sự kiện bên lề phiên Kiểm điểm Định kỳ (UPR) của Việt Nam ngày 5/2/2014. Các sự kiện đó là những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các phái đoàn đại diện ngoại giao của một số nước, và một số tổ chức quốc tế. Nội dung trao đổi là về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Những thông tin ấy các thành viên trong đoàn, trong đó có chị, đều đã phát biểu công khai trên một vài cơ quan truyền thông đại chúng – tất nhiên là ''lề trái'' như Dân Làm Báo, hoặc ''hải ngoại, tư bản'' như BBC, VOA, RFA. Nhưng những lời trong thư này thì chị chưa từng nói với ai, và em biết không, em là người chị muốn chia sẻ những suy nghĩ đó hơn cả.

Em có tin là, khi ở trong nước và cả ở nước ngoài, đã nhiều lần chị phải cắn môi, bám chặt tay vào mép bàn... để không bấm số của em, gọi điện cho em? Chị muốn gọi để nói thẳng với em những việc chị đang làm, những suy nghĩ của chị về em và về cuộc sống của mỗi chúng ta, thẳng thắn và rõ ràng, hy vọng ''sự thật sẽ giải phóng chúng ta''. Quả thật, đã có lần chị nháy vào số của em rồi, nhưng rồi lại dập máy trước khi em trả lời. Vì... chị sợ. Không phải sợ em, mà vì chị sợ sẽ không đủ khả năng để diễn đạt hết những điều chất chứa trong lòng bấy lâu nay, mà đến khi ra bên ngoài, chứng kiến một xã hội khác, một thế giới khác, những điều ấy càng quay cuồng trong đầu chị nhiều hơn.

Cái xã hội ấy, thế giới ấy khác với nơi chúng ta đang sống biết bao nhiêu, em ạ.

Em có nhớ tháng 11/2012, khi chị trở về Việt Nam sau một tuần sang Bangkok học (em chắc biết chị vẫn đang theo học cao học ngành quản trị), chị tặng em một hộp kem đánh móng tay? Chị vẫn nhớ vẻ mặt em lúc ấy: Gương mặt em rực sáng lên, với một nụ cười đầy ngỡ ngàng, vui thích – vẻ mặt mà chị không bao giờ quên được. Chừng như em cảm động, vì chưa bao giờ nghĩ một ''thành phần phức tạp'' như chị lại có thể tặng quà cho em. Chị cũng vậy, vì ngay lúc đó, chị cảm nhận rằng em giống chị ở một điểm: không biết ăn diện. Sau này nhiều lúc nghĩ lại, chị vẫn tự trách mình đã tặng em kem đánh móng tay. Lẽ ra nên là một thứ khác thực tế hơn, ví dụ đồ chơi cho con em, hoặc cái quần, cái áo gì đó. Vì người như chúng ta, có bao giờ dùng kem đánh móng tay đâu. Với cách trang phục giản dị, thậm chí xuềnh xoàng, của em và chị mà móng tay lại màu hồng bóng thì quả thật là không hợp.

Chị luôn nghĩ, nếu không có cái rào cản ''an ninh quốc gia'', hay nói đúng hơn, ''lợi ích của Đảng và Nhà nước'' ngăn trở, rất có thể chúng ta sẽ là hai chị em rất thân. Vì chúng ta giống nhau: nghèo, tiết kiệm, không biết ăn diện, và có lẽ cả hai đều có tinh thần trách nhiệm ngang nhau đối với công việc. Chúng ta sẽ nói với nhau những chuyện hay hơn nhiều so với các chuyện chúng ta vẫn từng phải trao đổi. Em sẽ hướng dẫn chị dùng sữa chua để làm sạch da mặt, sẽ khoe với chị thằng cu con khỏe mạnh, thông minh; còn chị sẽ kể với em những cuộc đi phỏng vấn với các nhân vật thật là hài hước, sẽ chia sẻ với em thông tin về giới văn nghệ sĩ, nhà khoa học, trí thức – một thế giới đa dạng và sinh động – mà bọn phóng viên thì thường thích kể về công việc phỏng vấn và nhân vật được chúng phỏng vấn lắm.

Cũng như bây giờ chị muốn kể với em về thế giới bên ngoài này biết bao.

Em biết không, có một chuyện cười: Hôm vào Hạ viện Mỹ, chị khụng khiệng trên đôi giày cao gót dọc một hành lang để vào phòng hội nghị. Vì không quen đi giày cao gót nên chị trượt chân ngã lăn quay trên thảm. Nghe tiếng ''huỵch'' rõ to, cả đám bảo vệ đứng ngoài cổng và quan chức phía trong phòng họp đều đổ xô ra. Khi thấy người gây ra tiếng động là một cô gái châu Á vừa bị ngã, đang lập cập ngồi lên, họ lao cả đến để... đỡ chị dậy. Ai cũng hỏi ''bạn có sao không'' một cách nhẹ nhàng, lịch sự và nhân ái đến mức chị đã bối rối lại càng bối rối. Họ hỏi rất thật lòng và cố gắng để mình không có cảm giác ngượng ngùng. Và ngay lúc ấy chị nghĩ, nếu ta đang ở Việt Nam mà bị ngã như thế thì sao? Chắc là sẽ có ngay hàng tràng cười hô hố: ''Chưa đến giường cơ mà em ơi'', ''thọt chân à em''...

Sự tôn trọng con người, nó thể hiện ở những điều nhỏ nhặt như thế. Nhân quyền đâu phải cái gì xa xôi đâu em, nó chỉ đơn giản là ''treat people with equal respect'', tất cả mọi người đều được đối xử với sự tôn trọng mà thôi.

Bảo vệ, vệ sĩ, và cả công an ở Việt Nam, có bao giờ có được thái độ trân trọng với từng con người, từng công dân như thế đâu, phải không em?

Giờ này chị đang ở châu Âu. Chị đã đến Stockholm, Brussels, Budapest, và Geneva. Những thành phố thanh bình, bồ câu và quạ bay rợp trời, thiên nga bơi lấp lánh trắng mặt hồ. Lần đầu tiên chị thấy ''Danube lơ'' êm đềm như thế nào, và nó lại gợi cho chị nhớ tới những lời ca mẹ chị vẫn hát ngày xưa, về một dòng sông khác ở châu Âu, Volga:

''Nép bên nhau, thiết tha lời ân tình
Bờ cỏ vắng, bóng đêm dần buông.
Họa mi hót khúc ca rừng êm đềm
hòa theo tiếng sóng vỗ dạt dào.
Sông Volga, những đêm thơ mộng ơi
Thời gian hỡi, hãy khoan, ngừng trôi''.

Thật sự là có những giây phút chị chỉ mong thời gian ngừng trôi.

Đường sồi.

Cuộc sống thanh bình đến mức những người như chúng ta, nếu cứ giữ mãi cái nhìn trước nay của chúng ta, với tư duy rõ ràng về ''thế lực thù địch chống phá Nhà nước'', thì sẽ chẳng thể hiểu nổi vì sao ''bọn tư bản giãy chết'' lại cứ phải quan tâm đến ''công việc nội bộ'' của một nước xa xôi, nghèo, chậm phát triển, như Việt Nam, dưới ''chiêu bài'' nhân quyền.

Họ quan tâm để làm gì? Có rất nhiều lý do vụn vặt, nhưng lý do bản chất của sự quan tâm ấy, là vì họ ở một xã hội văn minh, nơi mà người ta tin rằng nhân quyền là một giá trị phổ quát, dù là của người châu Âu, châu Á hay châu Phi, dù là của công dân Mỹ, Thụy Sĩ hay Việt Nam.

Còn chuyện ''nhân quyền và chủ quyền, cái nào cao hơn'' thì dài lắm, chị sẽ nói nhiều về nó ở một bài viết nào đấy sau.

Điều mà bây giờ chị muốn nói bây giờ, là càng đi xa, chỉ càng thấy nhớ và thương Việt Nam hơn.

Chị vốn không thích nước Mỹ, có thể vì một mặc cảm tự ti và ghen tị thầm kín trong lòng: Tại sao cũng là con người mà dân Mỹ không phải trầy trật... học tiếng Anh, lại có thể cầm hộ chiếu đi lại thoải mái khắp thế giới, không như công dân Việt Nam đi đâu cũng bị dò xét, nghi ngờ, bị ách lại hỏi giấy tờ, làm khó dễ, v.v. Nhưng khi ở Mỹ, chị cũng phải thừa nhận, những người Mỹ tạo nên một cộng đồng thân thiện và yêu nước – theo cái nghĩa, họ tự hào về quốc gia của họ. Và đặc biệt là sự thân thiện. Ở đó, dù là anh gác cổng người da đen hay chú bồi bàn da trắng tóc vàng, hay cô bán hàng gốc Á trong siêu thị, tất cả đều cởi mở và lịch thiệp với khách. Họ chẳng tiếc gì một nụ cười với khách, đến mức có lúc chị nghĩ hay đó là sự chuyên nghiệp mà họ học được, tức là họ được huấn luyện để lúc nào cũng tươi cười như vậy? Chứ chẳng nhẽ họ yêu công việc của họ, trân trọng khách hàng của họ đến thế được?

Song có lẽ cách hành xử hòa nhã ấy là thật, xuất phát từ thái độ của họ đối với công việc và con người, chứ không phải họ tập được.

Ngay ở Hungary, một xứ Đông Âu mà dân trong nước lâu nay vẫn nhiều người bảo là ''nghèo'', thì gia đình người Việt nào chị gặp cũng có xe hơi riêng và nơi ở, nếu không phải một ngôi nhà đẹp như biệt thự với vườn cây xanh mướt vào mùa hè, thì cũng là một căn hộ chung cư xinh xắn, ấm áp suốt cả mùa đông. Dân Hung cũng cởi mở, thân thiện, sẵn sàng giúp đỡ như dân Mỹ, Bỉ hay Thụy Điển. Hôm ở Thụy Điển, chị bước vào xe buýt và ngồi đúng vào hàng ghế dành cho người cao tuổi (hình như vậy). Khi một bà già tóc trắng như cước lại gần, quen phản xạ của người Việt Nam là cứ thấy ai bước tới là phải cảnh giác, chị suýt đứng dậy... bỏ chạy, thì bà già đã kêu lên: ''Ấy ấy, bạn cứ ngồi. Tôi chỉ định chỉ đường cho bạn đi thôi. Vừa nãy tôi có nghe thấy bạn hỏi đường mà''.

Em ơi, bao giờ thì người Việt Nam đối xử với nhau thân ái được như vậy?

Chị thấy xót xa cho thế hệ bố mẹ của chúng ta – những người sống trải qua bao năm tháng chiến tranh bom đạn, rồi tới thời bao cấp đói khổ, và trên tất cả, cứ sống mãi trong một xã hội người với người đối xử với nhau hung hãn như chó sói. Chị thấy xót xa cho những bạn trẻ Việt Nam thế hệ 7x, 8x, 9x – những người mà, như chị nói, đã không bao giờ có cơ hội được đào tạo đàng hoàng, tử tế trong môi trường giáo dục ở Việt Nam, để đến nỗi giờ này khoảng cách về kiến thức và kỹ năng giữa họ và người trẻ ở các nước khác, ngay cả trong khu vực, đã là quá xa.

Và chị thấy xót xa cho những người như em.

Chị vẫn nhớ câu chuyện em kể cho chị, về những đêm em giả làm người đi đường để rình bắt cướp ở Hải Phòng. Em bảo, dù biết có đồng đội ở quanh đó yểm trợ, nhưng em vẫn ''sợ chết đi được''. Chị nhớ đôi mắt em sáng ngời, vui thích, khi cầm hộp kem đánh móng tay chị tặng. Chị nhớ vẻ mặt bực bội của em nhìn chị, khi em phải hy sinh ngày chủ nhật cùng chồng đưa con trai đi chơi công viên, chỉ để phải gặp ''con mụ phản động'' là chị. Chị nhớ em thật thà bảo, lương thưởng của em, tính tổng cộng tất cả lại, chỉ có 8 triệu đồng thôi – mà là ''em vừa được tăng đấy nhé''. Và chị bảo, ô cao thế, vẫn còn hơn chị đến 2-3 triệu.

Một quán cafe ở Budapest.
Em à,

Bao giờ thì chúng ta có thể nói chuyện với nhau bình thường như hai người bạn, như hai chị em? Bao giờ thì chúng ta không còn bị những cơm, áo, gạo, tiền ám ảnh? Không còn những đề tài chị phải viết để có tiền nhuận bút, những dự án ''chống phản động'' em phải tham gia, những gương mặt phản động em phải gặp? Bao giờ cái thế giới của chúng ta được thanh bình, hay là bình thường hóa, để không còn vô vàn hình ảnh đen tối loang loáng trong đầu mỗi ngày đêm: an ninh quốc gia, phản động, dư luận viên, thế lực thù địch, chống phá...?

Bao giờ em có thể cầm cuốn hộ chiếu của em ra nước ngoài, đến Mỹ và châu Âu, để nhìn những dòng sông lững lờ trôi, với đàn thiên nga như rắc hoa trắng trên mặt nước?

Điều làm chị xót xa hơn cả khi nghĩ về em, là trong những đêm năm xưa em đi bắt cướp, hay trong những lần em phải bỏ chồng con ở nhà để đi làm việc ngoài giờ, để đấu tranh với bọn phản động, và chẳng bao giờ có hy vọng đi sang Mỹ hay châu Âu, thì vẫn có những vị tướng công an đi nước ngoài như đi chợ, thậm chí còn dư tiền tậu nhà cửa, xe hơi ở Mỹ. Con cái họ được du học tại trường xịn, tương lai được đảm bảo. Nếu họ có lo gì, chắc chỉ là phải lo làm sao cho chế độ ăn uống của họ được ''healthy'', nghĩa là ăn sạch uống sạch, đầy đủ chất, không gây tiểu đường, ung thư, xơ gan, suy thận... Kể ra điều này cũng hơi khó thực hiện ở nước ta, nhưng biết đâu đấy, có khi bọn mình quen tư duy kiểu dân nghèo nên tưởng thế thôi, chứ nhiều tiền thì mua tiên cũng được, kể cả mua sừng tê giác, vây cá mập, tay gấu ở Việt Nam.

Một góc thư viện công ở New York.

Bây giờ, viết đến những dòng này, chị cũng lại cảm thấy lo sợ: Biết đâu lá thư này của chị lại sẽ làm hại em? Có thể đồng nghiệp, rồi cấp trên của em, sẽ đánh giá em là thân thiết với ''con phản động'' quá, sơ hở quá, mất cảnh giác quá.

Nhưng chị hy vọng họ sẽ hiểu đây là những suy nghĩ thật lòng của chị, và nếu họ ''xử lý'', nhắc nhở hay có lời này nọ về em chỉ vì em là người được chị gửi lá thư này, thì chị thấy họ không có tư cách để làm đồng nghiệp hay cấp trên của em. Tuy nhiên, chị tin là họ không ngu ngốc như thế.

Chị mong sớm gặp lại em, em yêu mến.