Vào
đầu tháng 1/2011, vài ngày trước cuộc cách mạng mùa
xuân Ả-rập chấn động Ai Cập (25/1/2011), một nhà văn
người Thụy Điển từng có thời gian sinh sống ở Việt
Nam và quan tâm đến tình hình Việt Nam hỏi tôi: ''Vì sao
các blogger Việt Nam ''ít nói'' vậy? Tôi theo dõi và thấy
rằng ở Việt Nam chính quyền hà khắc, đàn áp nghiêm
trọng ngang với Iraq, Iran, Myanmar… mà dường như thế
giới không hề biết điều đó. Họ chỉ biết có Myanmar
là nước độc tài quân sự và Việt Nam thì luôn là một
mẫu mực về phát triển kinh tế năng động ở Đông Nam
Á. Họ chỉ biết đến các blogger Iran, Iraq, và tờ báo
đối lập Irrawaddy nổi tiếng của Myanmar. Họ không hề
biết Nhà nước Việt Nam độc tài đến mức nào và
người dân Việt Nam khổ ra sao. Tại sao vậy? Phải chăng
vì các blogger Việt Nam chỉ viết cho nhau đọc?''.
Khi
ấy tôi hơi lúng túng. Chưa bao giờ tôi nghĩ tới thực
tế đó. Tôi cũng không biết đến tờ báo Irrawaddy nào
của Myanmar (phương Tây hay gọi là Burma) cả; nhưng đúng
là tôi cũng có cảm tưởng Myanmar là một nhà nước độc
tài hà khắc. Chắc hẳn rất nhiều công dân trên thế
giới đều nghĩ như thế về Myanmar, nhưng không mấy ai
biết và càng chẳng ai quan tâm đến một nước Việt Nam
khác, không gắn với những luận điệu sáo mòn kiểu như
''anh hùng'', ''phát triển năng động'', ''gái đẹp'',
''phở ngon'', ''con người thân thiện'', v.v.
Tôi
nói với nhà văn Thụy Điển đó rằng ở Việt Nam cũng
có một số blogger chính trị nổi tiếng, nhưng chỉ là
nổi tiếng trong cộng đồng của họ mà thôi, tức là
cộng đồng những người quan tâm đến chính trị; và
giới ấy quá nhỏ bé, có xu hướng co cụm lại với
nhau, dân trong nước còn chẳng biết đến họ nữa là
bên ngoài.
Nhà
văn cho rằng không hẳn như thế: Ở bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới thì số người quan tâm đến chính
trị cũng chiếm tỷ lệ thấp, và càng ở xứ toàn trị
thì người ta càng được khuyến khích là nên sống yên
phận, mình biết việc mình hơn là quan tâm đến xã hội.
Tôi
chuyển sang cách giải thích khác, rằng có thể do đa số
các blogger Việt Nam không viết bằng tiếng Anh, mà quan
trọng hơn nữa, là không có một tờ báo nào phản ánh
tiếng nói của họ ra thế giới cả. Trong khuôn khổ một
buổi cafe sáng hôm ấy, không còn cách giải thích nào hợp
lý hơn như thế nên chúng tôi tạm chấp nhận lý do đó.
Những nỗ lực của blogger nhằm quốc tế hóa vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.
Nguồn ảnh: FB Anh Chí, 10/1/2014
''Viết
cho đồng bào tôi đọc''
10
ngày sau, vào ngày 25/1/2011, cách mạng mùa xuân bùng nổ ở Ai Cập trong một
cuộc biểu tình hơn 50.000 người trên quảng trường
Tahrir. Biểu tình kéo dài liên tục. Tới ngày 31/1,
phóng viên đài Al Jazeera ước tính số người tham gia đã
lên đến ít nhất 250.000. Và phong trào biểu tình hàng chục nghìn người này xuất phát từ những lời kêu gọi trên
Facebook.
Dường
như được tạo cảm hứng mãnh liệt bởi cuộc cách mạng
2.0 ở xứ Bắc Phi, các blogger Việt Nam bắt đầu tăng
cường sử dụng mạng để chia sẻ thông tin, viết bài
và kết nối hơn. Ngày 5/6/2011, cuộc biểu tình chống bá
quyền Trung Quốc đầu tiên kể từ sau năm 2007, diễn ra
tại cả Hà Nội và Sài Gòn, đánh dấu khuynh hướng tập
hợp của các blogger chính trị, bắt đầu từ mạng
Facebook.
Gần
một năm sau, vào tháng 4/2012, các blogger cũng là lực
lượng đi tiên phong trong việc đưa tin, đăng ảnh, viết
bài – mà họ gọi là ''làm truyền thông'' - về vụ
cưỡng chế đất đai ở Văn Giang. Từ mùa hè biểu tình
2011 đến chiến dịch làm truyền thông Văn Giang 2012 này,
lạc quan mà nói, giới blogger chính trị hay là ''báo lề
trái'' ở Việt Nam đã tiến một bước dài. Họ không còn chỉ ngồi chờ ''lề phải'' đăng tin, rồi họ dẫn lại
và đay thêm vài câu chua chát. Họ đi xa hơn thế:
-
Họ viết bài bình luận, thậm chí tìm kiếm thông tin bổ
sung. Dù rằng cách viết còn cảm tính (nói cách khác là
''bản năng'') và để lộ sự thiếu chuyên nghiệp, nhưng
họ đã mở rộng bình luận, tức là làm cái mà báo chí
lề phải không dám làm và/hoặc không được làm.
-
Họ chủ động gặp gỡ và phỏng vấn sâu phía nạn
nhân, là những người mà báo chí lề phải không tiếp
xúc nhiều – phần vì lý do ''ngại nhạy cảm'', phần vì
sợ bài mất tính khách quan.
(Có
một phóng viên tự do người Nauy, cô Jessica Ryan, từng
nói với tôi rằng cô không hiểu tại sao các nhà báo
Việt Nam lại có tư duy như vậy nếu họ làm việc cho
báo chí quốc doanh: ''Các nhà báo làm cho những tờ báo
của chính quyền rồi, thì họ càng phải đưa tin về
phía đối lập với chính quyền, phản biện chính quyền,
nói rộng ra là về nhân dân, cho cân bằng. Thế mới là
khách quan chứ?'').
Dù
đã tiến một bước dài, nhưng công cuộc làm truyền
thông của giới blogger Việt Nam vẫn hướng đến độc
giả người Việt là chủ yếu; nói cách khác, họ vẫn ''viết cho nhau đọc'', ''tôi viết cho đồng bào tôi
đọc''. Mọi bài viết trên báo chí tiếng Anh, nếu có,
chỉ là thảng hoặc, nhờ vào sự chú ý tình cờ của
một phóng viên nước ngoài nào đó về tình hình Việt
Nam, thông qua mối quen biết dây mơ rễ má của phóng viên
nọ với cá nhân A, cá nhân B trong cộng đồng blogger
chính trị Việt Nam.
Cưỡng chế đất ở Văn Giang sáng 24/4/2012.
Ảnh do một blogger chụp.
Cộng
đồng quốc tế quan tâm – có cần thiết không?
Có
ý kiến cho rằng không cần thế giới phải biết đến
tình hình Việt Nam, nhất là chuyện chính quyền xâm phạm
nhân quyền của người dân. Bởi vì, dù có biết, cộng
đồng quốc tế cũng chẳng làm gì. Suy cho cùng, mọi việc
ở Việt Nam phải do chính người dân trong nước làm, kể
cả công cuộc đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ.
Đi
đến tận cùng của vấn đề, thì đúng vậy: Mọi việc
ở Việt Nam phải do chính người dân trong nước giải
quyết.
Nhưng,
giữa những cái xấu phải chọn cái ít xấu hơn, giữa
những cái tốt phải chọn cái tốt hơn. Sống trong thế
giới thời toàn cầu hóa, hội nhập tốt hơn là không
hội nhập. Cuộc đấu tranh của những blogger Việt Nam vì
quyền tự do sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu thu hút được
sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, khía
cạnh quan trọng của chuyện này là, nhiều khi chính quyền
Việt Nam, với truyền thống ''khôn nhà dại chợ'', ''bạo
dạn xó bếp'', lại có xu hướng e ngại sức ép từ bên
ngoài hơn trong nước. Ông Ismail Wolf, Giám đốc Điều
hành tổ chức Đại biểu Quốc hội ASEAN vì Nhân quyền
(ASEAN Parliamentarians for Human Rights, APHR), nhận xét: ''Cùng
một vấn đề nhân quyền, nhưng nếu chính phủ một nước
láng giềng trong ASEAN đưa ra thì sẽ dễ được Chính phủ
Việt Nam chấp nhận hơn là để người dân trong nước
nói''.
Chính
quyền cộng sản nào cũng không thích sự minh bạch, nhưng
lại thích được ''đánh giá cao'', thích giữ hình ảnh
đẹp trong mắt dư luận thế giới. Khi được hỏi, Nhà
nước Việt Nam có sợ áp lực quốc tế không, một quan
chức cao cấp của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về
Nhân quyền tại Geneva từng nói riêng với một số blogger Việt Nam: ''Tôi không muốn dùng từ ''sợ'', tôi
muốn dùng từ ''quan tâm''. Họ có thể không sợ, nhưng
họ quan tâm đấy. Nói cho chính xác, Nhà nước Việt Nam
quan tâm tới những quốc gia mà ở đó, báo chí có ảnh
hưởng. Họ hiểu rằng công luận của các quốc gia đó
có thể tác động tới chính sách của chính phủ. Đó là
lý do khiến tôi nói với các bạn rằng báo chí quốc tế
có vai trò rất quan trọng... Tôi tin là nếu những vi phạm
nhân quyền ở Việt Nam bị đưa lên báo chí quốc tế,
chính quyền Việt Nam sẽ rất bối rối''.
Trung
Quốc, mặc dù là nước lớn và mang tư tưởng đại Hán,
kiêu ngạo hơn Việt Nam nhiều, nhưng cũng có một câu chuyện có thể chứng minh cho việc chính quyền Bắc Kinh
e ngại sức ép từ bên ngoài hơn trong nước. Vào tháng
10/1999, một phóng viên tờ Khoa học Công nghệ Hà Nam (cơ
quan ngôn luận của Hội Khoa học Công nghệ tỉnh Hà Nam,
Trung Quốc), tên là Zhang Jicheng, sau khi ngồi cùng chuyến
tàu với hai người dân làng Wenlou ở tỉnh Hà Nam, nghe
thông tin từ họ và tìm hiểu thêm, đã phát hiện ra một
sự thật khủng khiếp: Dân làng này bị nhiễm HIV/AIDS
qua việc truyền máu tại các trung tâm hiến máu nhân đạo.
Có gia đình tứ đại đồng đường với khoảng
50-60 thành viên, gần như tất cả đều nhiễm HIV dương
tính.
Sun, 34 tuổi, người Hà Nam, bán máu năm 1999, chết ngày 28/1/2002 vì AIDS.
Trong ảnh là người cha đang khóc con. Ảnh: AFP.
Nguồn: Karin Haley (anth444kmh.blogspot.com)
Zhang
viết bài, nhưng tòa soạn không đăng. Anh gửi bài sang
báo khác, tờ Hoa Tây Đô Thị của tỉnh Tứ Xuyên, và
đến ngày 18/1/2000 thì bài báo về ''căn bệnh lạ'' ở
Hà Nam được đăng tải trên Hoa Tây Đô Thị. Zhang bị
đuổi việc (nhưng tòa soạn bí mật giữ lại để anh
viết bài, lấy tên khác). Bốn tháng sau, tờ Đại Hà
Nhật Báo tiếp bước với một chuyên đề về ''Dịch
AIDS ở Hà Nam'', số đầu tiên ra ngày 11/5/2000. Tờ này
bị xử lý ngay, tổng biên tập bị cách chức.
Trong vòng mấy năm trời (thực chất phải tính từ năm 1995 khi một vài bác sĩ phát hiện ra mẫu máu nhiễm HIV dương tính, nghĩa là trước cả Zhang Jicheng), mọi nỗ lực lẻ tẻ nhằm đưa sự việc ra ánh sáng đều bị đàn áp. Quả bom tấn đã chỉ thực sự bùng nổ sau khi tờ
báo mang tầm quốc tế New York Times vào cuộc ngày 28/10/2000 với bài báo 1.600 từ của Elizabeth Rosenthal: ''Nông thôn
Trung Quốc với cái giá quá đắt của nghèo đói: Chết
vì AIDS''. Truyền thông quốc tế và báo chí Trung Quốc
gần như đổ xô về Hà Nam. Câu chuyện dân nghèo bán máu
kiếm sống và nhiễm AIDS bị phơi bày ra thế giới theo
một cách mà chính quyền không thể kiểm soát được.
Chỉ từ lúc ấy, chính phủ Trung Quốc mới thực sự có
những chính sách bảo vệ sức khỏe và tính mạng dân
chúng trước nạn lây nhiễm AIDS qua truyền máu.
Còn tiếp
Còn tiếp