Xét trên cả bình diện pháp luật nội địa lẫn quốc tế, việc
bắt và giam giữ blogger Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) cùng cộng sự Nguyễn Thị
Minh Thúy là hoàn toàn tùy tiện và trái pháp luật.
Quy trình tố tụng sai từ đầu
Vụ án Anh Ba Sàm mở màn ngày 5/5 với việc bắt khẩn cấp
ông Nguyễn Hữu Vinh và sau đó là bà Nguyễn Thị Minh Thúy.
Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, quyết định bắt khẩn
cấp khác với quyết định bắt thông thường ở chỗ nó không cần sự phê chuẩn của Viện
Kiểm sát nhân dân cùng cấp trước khi thi hành. Việc phê chuẩn sẽ được tiến hành
sau khi bắt người, trong vòng 12 tiếng kể từ khi Viện Kiểm sát nhận được đề nghị
phê chuẩn từ cơ quan điều tra.
Quy định này trao cho cơ quan điều tra quyền hành động
ngay lập tức, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào, và hạn chế tối đa nguy cơ rò
rỉ thông tin.
Tuy nhiên, quyết định bắt giữ khẩn cấp này của Cơ quan An
ninh Điều tra (Bộ Công an) lại không nằm trong bất cứ trường hợp nào được phép
bắt khẩn cấp theo quy định tại Điều 81, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Theo đó, việc bắt khẩn cấp chỉ được tiến hành trong trường
hợp (i) khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; (ii) khi người bị hại hoặc
người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là
người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
và (iii) khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị
nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc
tiêu huỷ chứng cứ.
Cả ba trường hợp nêu trên đều dễ dàng bị loại bỏ, bởi Điều
258, Bộ luật Hình sự không thuộc nhóm tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng, không có người bị hại nào hoặc người nào có mặt tại nhà và văn
phòng của ông Vinh và bà Thúy trông thấy họ đang thực hiện tội phạm gì, và cơ
quan điều tra không chứng minh được dấu vết tội phạm gì ở người hoặc chỗ ở của
hai người này. Bằng chứng là theo Bản Kết luận điều tra số 14/KLĐT ngày 30/10,
tất cả các đồ vật thu giữ được tại nhà và văn phòng của họ đều được kết luận là
“không liên quan trực tiếp đến vụ án”.
Việc sai phạm ngay từ khâu bắt giữ dẫn đến sai phạm của
toàn bộ quy trình tố tụng sau đó.
Vi phạm quyền bí mật thông tin cá nhân
Bản Kết luận điều tra còn trực tiếp tiết lộ phương pháp
thu thập chứng cứ trái pháp luật của cơ quan công an, mà những chứng cứ này lại
được dùng làm cơ sở để ra quyết định bắt khẩn cấp đối với ông Vinh và bà Thúy.
Điều đó được thể hiện rõ ngay trang 1 của bản Kết luận điều
tra, trình bày rằng vụ án đã được bắt đầu từ ngày 01/4 khi Cục Bảo vệ Chính trị
6 – Tổng cục An ninh I – Bộ Công an gửi Công văn cho Cơ quan An ninh Điều tra,
cung cấp dữ liệu theo dõi hai thuê bao Internet (đăng ký với nhà mạng VDC và
FPT) của ông Vinh và bà Thúy, với kết luận “thường xuyên đăng tải trên Internet
các bài viết có dấu hiệu xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân”.
Điều này không khỏi khiến những ai quan tâm đặt ra một số
câu hỏi: Liệu công an có được phép theo dõi và sao chép dữ liệu truy xuất
Internet của người dùng hay không? Nếu công an muốn theo dõi và sao chép dữ liệu
đó thì nhà mạng có nghĩa vụ cung cấp hay không? Và nhà mạng có được phép cung cấp
dữ liệu của khách hàng cho công an hay không?
Một số người khác sẽ liên tưởng đến một chi tiết tuy nhỏ
mà không nhỏ trong các vụ án ở phương Tây: Cảnh sát chỉ được phép nghe trộm điện
thoại của công dân khi được tòa án cho phép.
Đối với pháp luật Việt Nam, câu trả lời có thể dễ dàng được
tìm thấy tại Điều 38, Bộ luật Dân sự về quyền bí mật đời tư, theo đó, “thư tín,
điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo
đảm an toàn và bí mật”.
Điều 72 của Luật Công nghệ thông tin cũng nghiêm cấm việc
xâm nhập, sửa đổi, xóa bỏ nội dung thông tin của tổ chức, cá nhân khác trên môi
trường mạng.
Tuy vậy, một số người có thể trích dẫn chính Điều 38, Bộ
luật Dân sự để phản bác, rằng việc kiểm soát thư tín và thông tin điện tử vẫn
có thể tiến hành theo quy định của pháp luật VÀ khi có quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Vậy nhưng quy định đó là quy định nào và quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là quyết định nào thì bản Kết luận điều tra
hoàn toàn không nhắc tới.
Nếu thực sự Bộ Công an được trao thẩm quyền theo dõi dữ
liệu thuê bao Internet, và thực sự có quyết định của một cơ quan nào đó cho
phép họ theo dõi thuê bao của ông Vinh và bà Thúy thì lại phải đặt một dấu hỏi
lớn về tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý của các văn bản đó.
Cần lưu ý rằng, cho đến nay, hai văn bản trực tiếp quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an là Nghị định số 77/2009/NĐ-CP và
số 21/2014/NĐ-CP đều không được tìm thấy trên hệ thống công báo cũng như các
website tra cứu văn bản pháp luật. Một số nguồn tin nói rằng chúng được đóng dấu
Mật và không được phép công khai.
Nhà báo công dân. Ảnh: Nguyễn Lân Thắng
Bắt giữ tùy tiện
Dưới lăng kính pháp luật quốc tế về nhân quyền, hành vi bắt
và giam giữ ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy là sự vi phạm đối với
quyền tự do thân thể của họ và được định nghĩa là hành vi bắt giữ tùy tiện.
Các Điều 9 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 và
Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều khẳng định
“không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách tùy tiện”.
Việt Nam là thành viên đầy đủ của Liên Hiệp Quốc và đã ký
kết, tham gia các văn kiện mang tính chất nền tảng và trụ cột này của luật nhân
quyền quốc tế.
Quy định khá khái quát của hai văn kiện nêu trên, trong một
nền pháp trị bình thường và với sự độc lập của hệ thống tư pháp, bao giờ cũng
được giải thích và thực thi gần với công lý xã hội nhất, tiệm cận nhất có thể với
điểm cân bằng giữa quyền của các cá nhân và sự an toàn của xã hội.
Vào năm 2000, Nhóm làm việc về bắt giữ tùy tiện của Liên
Hiệp Quốc, một cơ quan bao gồm các chuyên gia nhân quyền độc lập chuyên điều
tra các vụ bắt giữ tùy tiện ở các quốc gia thành viên, đã đưa ra một bộ ba tiêu
chí cơ bản để xác định khi nào thì một hành vi bắt giữ được coi là tùy tiện.
Trong số ba tiêu chí đó, việc bắt giữ do thực thi các quyền
tự do được quy định trong các văn kiện về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc sẽ được
coi là tùy tiện và được xếp vào Mục II (Category II).
Mặc dù ông Vinh và bà Thúy không khai nhận 24 bài viết được
nêu trong bản Kết luận điều tra là do họ đăng tải, nhưng việc công an cho rằng
họ đã đăng những bài viết đó và tiến hành bắt giữ họ, không gì khác hơn là sự
vi phạm quyền tự do ngôn luận, và rơi vào Mục II nêu trên.