Thầy
Thích Viên Lý, trụ trì chùa Điều Ngự (Westminster, California), khẳng định như
vậy khi nói về tình trạng tự do tôn giáo bị chà đạp liên miên ở Việt Nam nhiều
năm qua. Ông là đại diện của Tăng đoàn Giáo hội Việt Nam Thống nhất Hải ngoại
trong một phái đoàn Phật tử đến trụ sở Liên Hợp Quốc (LHQ) ở New York gần đây để
vận động cho nhân quyền Việt Nam.
- Thầy
có thể cho biết mục đích chuyến đi vận động của phái đoàn?
- Mục đích của việc vận động là giúp cho những nhân chức của
Cao ủy Nhân quyền LHQ hiểu rõ hơn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam.
Tất nhiên, là một cơ quan đảm trách về bảo vệ nhân quyền, chắc chắn Cao ủy đã
tìm hiểu để có thể biết rõ quốc gia nào tôn trọng, quốc gia nào không tuân thủ
những gì họ đã cam kết – ví dụ Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị.
Tuy nhiên, về phía người Việt Nam chúng ta, nếu chúng ta là nạn nhân mà lại không
trực tiếp trình bày để giới chức LHQ hiểu một cách toàn triệt về những gì đang
xảy ra ở Việt Nam thì rõ ràng là ta chưa làm tròn trách nhiệm công dân của
mình, lương tâm của chúng ta sẽ vô cùng cắn rứt.
Quan trọng hơn, đồng bào ta trong nước, nếu bị chà đạp,
cũng thấp cổ bé họng không làm sao cho thế giới biết được. Còn cộng đồng người
Việt ở đây (California) thì có đầy đủ phương tiện, được tự do ăn nói, tự do đi
lại. Cho nên, nếu chúng tôi không làm hết sức để bênh vực cho người trong nước,
bảo vệ các quyền mà LHQ đã quy định và chính phủ Việt Nam đã ký cam kết tôn trọng,
thì sẽ là vô cùng thiếu sót, không làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình.
Đó là lý do tại sao sau khi có những vụ vi phạm nghiêm trọng
quyền tự do tôn giáo xảy ra tại Việt Nam thời gian qua, chúng tôi đã quyết định
tiến hành cuộc vận động này.
“Không bao giờ kỳ vọng quá mức”
- Lâu
nay có một ý kiến, có lẽ cũng là băn khoăn của nhiều người hoạt động nhân quyền
trong nước, là: Chúng ta đi vận động nhiều và lần nào quốc tế cũng quan tâm,
nhưng không biết kết quả thực tế được đến đâu?
- Mặc dù LHQ là một tổ chức có quyền rất lớn, nhưng họ cũng
gặp phải nhiều khó khăn. Đơn cử như chuyện 5 thành viên thường trực của Hội đồng
Bảo an không phải lúc nào cũng đồng thuận. Cho nên chúng tôi luôn hy vọng,
nhưng không bao giờ kỳ vọng một cách quá mức để rồi mình lại thất vọng. Đó là
điều chúng tôi đã tự rèn cho mình. Dù đi vận động ở bất cứ đâu, cũng đừng bao
giờ để tâm thức của mình rơi vào trạng thái thất vọng vì chuyện cơ quan này, tổ
chức kia hứa hẹn mà lại không đáp ứng trọn vẹn.
Qua kinh nghiệm, chúng tôi học được một điều là: Không
ai, dù người đó có khả năng thế nào, có thể đáp ứng trọn vẹn nhu cầu của bất kỳ
ai. Mình kỳ vọng ai đó đáp ứng tất cả nhu cầu của mình là không thực tế, vì mỗi
tổ chức, mỗi cá nhân đều có giới hạn của họ, vả lại họ cũng có những nhu cầu
riêng.
Đức Phật dạy: Cõi ta bà này là cõi bất toại nguyện, bất
toại ý. Thành thử, chúng ta không bao giờ nên tìm sự tuyệt đối trong một thế giới
tương đối cả.
Tất nhiên, tôi tin LHQ cũng hết lòng, trong khả năng có
thể, để giúp đỡ chúng ta theo các công ước quốc tế, vì đó là bổn phận và trách
nhiệm của họ. Nhưng làm được tới đâu, thành tựu thế nào, thì còn phụ thuộc vào
mức độ vận động của chúng ta và đối phương. Bởi vì chính quyền Việt Nam có tiền,
có nhân sự, có chiến lược và kế hoạch, họ cũng rải người đi khắp nơi vận động
chứ không phải chỉ mình chúng ta gõ cửa các trung tâm quyền lực như LHQ.
- Nói
về kinh nghiệm của việc đi vận động rút ra từ lần này, nếu tự đánh giá hiệu quả
thì thầy thấy có gì tốt, có gì cần cải thiện?
- Trước mắt, chúng tôi cảm thấy có một phần nào an lòng, rằng
mình đã thể hiện trách nhiệm và bổn phận trước những khổ họa của dân tộc, của đồng
bào trong nước. Có lẽ những người dân đang đối diện với bất công, phi lý, bạo lực
ở Việt Nam cũng cảm thấy được an ủi, vì bên ngoài có những người đã và đang đồng
cảm, tìm cách hỗ trợ họ.
Bên cạnh đó, ít ra các cơ quan quốc tế đang làm công tác
nhân quyền cũng có thêm dữ kiện để đặt vấn đề với các quốc gia đã từng ký kết
mà lại vi phạm thường xuyên điều ước quốc tế.
Còn kinh nghiệm rút ra từ chuyến đi mà chúng tôi muốn
chia sẻ là: Điều quan trọng không phải chỉ là chúng ta đến tiếp xúc với cơ quan
nào, ở thời điểm nào. Vấn đề ở đây còn là trước và sau cuộc tiếp xúc đó, chúng
ta làm gì. Chúng ta có chuẩn bị sẵn sàng và đầy đủ trước khi chúng ta tiếp xúc với
họ hay không? Và sau cuộc gặp, chúng ta có tiếp tục giữ liên lạc, tiếp tục cung
cấp thông tin, tài liệu và nhắc nhở họ thường xuyên không?
Thế giới hiện nay có rất nhiều vấn đề nóng cần giải quyết,
của toàn cầu cũng như của mỗi quốc gia, dân tộc. Vậy thì những tổ chức nhỏ, những
cá thể lẻ loi như chúng ta liệu có đủ thu hút sự chú ý của quốc tế trước cả
ngàn sự kiện xảy ra mỗi ngày hay không? Làm sao để nhắc nhở thường xuyên, để
người ta quan tâm đến những sự việc mình đang quan tâm? Làm sao để người ta có
thể xem những gì mình đang xem trọng như là việc của chính bản thân họ? Có nhiều
khi ta đến gặp họ, ta trình bày, rồi ta để mọi sự rơi vào khoảng trống của sự
quên lãng. Như thế thì vừa mất thì giờ, mất công sức, vừa không đưa dẫn đến những
thành quả tốt đẹp như chúng ta mong đợi.
Hòa thượng Thích Viên Lý (người thứ ba từ trái sang) trong phái đoàn Phật tử
vận động cho nhân quyền Việt Nam, 8/12/2014.
Chùa
Liên Trì – cái gai trong mắt chính quyền
- Khi
trình bày với LHQ về nhân quyền ở Việt Nam, phái đoàn có nhấn mạnh đặc điểm gì
của tình hình tự do tôn giáo?
- Đã hơn 1 năm kể từ ngày Việt Nam trở thành thành viên Hội
đồng Nhân quyền LHQ, tình hình nhân quyền chẳng những không được cải thiện mà
còn đen tối hơn. Riêng trong lĩnh vực tự do tôn giáo, có thể kể đến ba trường hợp
vi phạm mới nhất: Chùa Liên Trì – cơ sở cuối cùng của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất trước đây tại Sài Gòn – đang bị chính quyền địa phương lên kế hoạch
cưỡng chế mà không hỗ trợ di dời tái định cư, cho nên cũng giống như một cách
san bằng, xóa sổ. Chùa An Cư (Đà Nẵng) do Đại đức Thích Thiện Phúc trụ trì cũng
trong tình trạng tương tự. Và đặc biệt là Đại đức Thích Thiện Tâm ở chùa Phước
Bửu (Bà Rịa-Vũng Tàu) bị hành hung thô bạo bởi những công an mặc đồng phục –
tôi xin nhấn mạnh là “đồng phục”, chứ không phải là dưới dạng côn đồ hay xã hội
đen.
- Hiện
giờ tình hình cưỡng chế đất đai nhà chùa thế nào?
- Chùa Liên Trì của hòa thượng Thích Không Tánh đang ở
trong tầm ngắm của chính quyền. Đó là ngôi chùa mà những tổ chức xã hội dân sự
gần đây xem như là nơi tụ họp hàng tháng. Đó cũng là nơi mà thương phế binh Việt
Nam Cộng hòa, cô nhi, người nghèo đói, bệnh tật thường tìm đến để được giúp đỡ.
Tất nhiên, sự giúp đỡ có giới hạn vì chùa chẳng phải là cơ sở kinh doanh giàu
có gì.
Khi chính quyền lên kế hoạch giải tỏa chùa Liên Trì, thật
ra đâu phải vì họ cần một mảnh đất để làm khu thương mại. Mà nguyên nhân là vì
chùa Liên Trì đã trở thành cái gai trong mắt họ. Đó không chỉ là trung tâm cứu
tế mà còn là trung tâm đối kháng, cho nên họ phải tìm cách cưỡng chế. Ngoại trừ
một văn bản viết vài điều chung chung, còn lại họ toàn nói miệng để không có bằng
chứng nào để ta dựa vào đó mà khiếu kiện.
Hãy
đấu tranh vì công lý
- Chính
quyền Việt Nam thường củng cố một quan điểm thế này: Người tu hành thì cứ lo việc
tu thôi chứ lo làm gì việc đời. Nhà nước thu hồi đất thì nhà chùa có nghĩa vụ
phải chấp hành, chứ chống đối thì như thế là gây rối, phạm pháp. Thầy nghĩ sao
về điều đó?
- Quan điểm đó là hoàn toàn sai lầm, nếu không nói là vô
minh. Bởi vì, tất cả lãnh đạo các tôn giáo đều hướng dẫn tâm thức của con người
về cái thiện, để đạt được cứu cánh tối hậu là sống trong tuệ giác, trong sự hiểu
biết. Sức mạnh của đạo Phật là gì? Là từ bi và trí tuệ. Cho nên sứ mệnh của
chúng tôi là khai dụng đúng mức sức mạnh nội tại đó để chuyển hóa niềm đau, nỗi
khổ của tha nhân. Mình nói hai chữ “từ bi”, nhưng người ta đến cướp đất của
dân, mình không có một thái độ nào trước sự bất công, phi pháp đó thì chữ “từ
bi” ấy có giá trị và ý nghĩa gì?
Đất của chùa là đất để thờ phụng. Chúng tôi coi mỗi ngôi
chùa như một trung tâm bảo vệ nhân quyền, một trung tâm của từ thiện xã hội, của
văn hóa giáo dục. Vậy mà người ta ngang nhiên cướp đi những mảnh đất như thế, thì
bổn phận của người trong chùa hoặc của quần chúng có liên hệ trách nhiệm đến
ngôi chùa đó, là phải bảo vệ nó. Đất là của nhà chùa, thì nhà nước có trách nhiệm
phải bảo vệ theo đúng hiến pháp. Nếu nhà nước đến để chiếm dụng thì là phi
pháp. Chính những người đang thực thi công vụ đã giẫm đạp lên hiến pháp mà nhà
nước ban hành chứ ai? Người phạm pháp phải bị nghiêm trị, chứ không thể gán hai
từ “phạm pháp” cho người bảo vệ tài sản của mình.
- Chính
quyền nói, sư sãi chống lại chủ trương của nhà nước tức là ủng hộ bạo lực và tạo
nghiệp xấu…
- Tạo nghiệp là gì? Trước hết phải hiểu nghiệp xuất phát từ
đâu. Từ ba nơi, thứ nhất là tâm, tức là ý. Thứ hai là khẩu, tức là lời nói. Thứ
ba là hành động.
Mình không muốn những người cướp đất chùa tạo ra những
nghiệp bất thiện, sẽ đọa vào cảnh giới khổ đau. Vì từ bi, thương họ, nên mình phải
chặn đứng những hành động tạo ra ác nghiệp. Cái đó mới là tâm từ bi. Còn mình
nói từ bi mà thấy người khác phạm pháp, làm việc tội lỗi, chuốc lấy hậu quả khổ
đau, mình không ngăn chặn, thì mình đâu phải là người đang hành giáo lý từ bi?
Tôi lấy ví dụ, thấy một sát thủ cầm súng chuẩn bị sát hại
những học sinh vô tội mà mình cứ ngồi “Nam Mô A Di Đà Phật”, chứ không tước lấy
khẩu súng đó hoặc không kêu cảnh sát đến cứu các học sinh, thì mình có từ bi
hay không? Từ bi nguyên nghĩa là “từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”. Mình dâng
hiến lòng yêu thương đích thực cho tất cả muôn loài chớ không phải là gieo khổ
đau, tạo thù oán. Đó là nghĩa của “từ”. Còn “bi”, tức là mình nhổ sạch cội rễ của
khổ đau, chứ không phải chỉ trên ngọn. Thấy người khác lâm vào tình cảnh bất
công thì mình phải ra tay hành động để cứu thế.
Dường như người cộng sản không hiểu từ bi là gì, sứ mệnh
thiêng liêng cao cả của những tu sĩ Phật giáo như thế nào, tôn giáo có nhiệm vụ
ra sao đối với xã hội, đất nước. Hoặc giả họ hiểu đấy, nhưng họ cố ý định hướng
sai lạc để dễ bề thao túng quần chúng cho họ muốn làm gì thì làm.
Chỉ
dùng bạo lực, chính quyền không thể trụ được
- Nếu
có thể dành cho chính quyền một lời khuyên thì thầy khuyên gì chính quyền Việt
Nam?
- Họ cần ý thức rõ rằng bạo lực không thể chặn đứng cái ác.
Nhưng tôn giáo thì có thể. Ở tình trạng lý tưởng, khi con người ý thức rõ được
về luật nhân-quả thì không cần có cảnh sát, pháp luật. Tôi lấy thí dụ: Ở Mỹ,
dân chúng chạy xe trên xa lộ thường không đi quá tốc độ hay vượt đèn đỏ, vì sợ
cảnh sát phạt tiền. Vấn đề là nếu không có vé phạt thì ai nấy có thể tha hồ chạy
xe, tạo ra vô số nguy hiểm. Nhưng nếu chúng ta ý thức được hiểm nạn xảy ra đối
với bản thân và với người khác thì chúng ta sẽ tự chế. Dù có hay không có cảnh
sát nhưng khi đã ý thức được luật nhân-quả, ý thức được nhân là lái xe quá tốc
độ, quả là tai nạn, thì chúng ta sẽ đều cố gắng làm sao để bảo vệ chính mình và
mọi người.
Nếu mọi người dân đều hiểu được luật nhân-quả thì họ sẽ
không làm điều ác, và như vậy thì xã hội sẽ thái bình, đất nước sẽ ổn định.
Nếu chính quyền Việt Nam để cho các tôn giáo chăm sóc đời
sống tâm linh đạo đức của dân chúng thì xã hội đâu loạn lạc như ngày nay? Nhà
nước không tốn gì cho tôn giáo mà lợi ích tôn giáo mang lại cho đất nước rất lớn
lao.
Chúng tôi khuyên họ cố gắng thấy được điều này: Chỉ dùng
bạo lực để trấn áp và xem quần chúng như kẻ thù chứ không phải người thân thì họ
không thể an ổn được đâu. Nên họ phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến, tôn
trọng truyền thống văn hóa, tâm linh của dân. Họ mà làm được như vậy thì các
tôn giáo đâu có lý do gì để chống họ? Đằng này, làm mất lòng dân, đàn áp tôn
giáo, để tạo sự bất mãn lớn lao thì chắc chắn chế độ không thể nào đứng vững được.
Chính quyền phải hiểu rằng họ có thể che đậy nhiều việc nhưng không che đậy được sự thật, họ có thể
trốn tránh nhiều thứ nhưng không thể tránh được luật nhân-quả.
Hãy nhìn Tổng thống Saddam Hussein ở Iraq. Đã có thời đến
những cái bồn rửa mặt của ông ta cũng dát vàng, ông ta sống trong nhung lụa,
quyền lực. Nhưng do tham vọng và tinh thần chấp ngã, ông ta phải trốn chui trốn
lủi mà cuối cùng bị treo cổ. Mạng mất, tài sản tích lũy nhiều chục năm cũng
tiêu luôn. Đó là tấm gương nhãn tiền cho những người cộng sản không tin luật
nhân-quả mà liên tục làm điều ác. Mình thấy mà thương thay cho họ, cho những kẻ
vô minh.